Wednesday, May 4, 2016

*** TU HÀNH PHẢI TINH TẤN --TẠI SAO TÔI THEO ĐẠO PHẬT?



TU HÀNH PHẢI TINH TẤN
HT Thích Thanh Từ 

Ngày xưa chư Tăng Ni thời đức Phật sau khi học hiểu nơi Ngài xong, mỗi vị đều đi nơi này nơi kia để khất thực giáo hóa chúng sanh, ít khi tụ họp lại một chỗ. Vì vậy có những vị mới thọ giới Tỳ-kheo hoặc còn Sa-di, chưa hiểu đạo lý nhiều, đi nơi này nơi nọ thường xảy ra những điều không hay. Do đó đức Phật lợi dụng ba tháng mùa mưa, kêu gọi tất cả Tăng Ni tụ họp lại từng nhóm ở mỗi bản xứ riêng, cùng nhau thúc liễm thân tâm tu hành.

Hôm nay là ngày đầu của mùa an cư, tôi có vài điều nhắc nhở Tăng Ni để quí vị tu hành được tăng tiến. Trước hết tôi nói về phần an cư, sau nhắc về phần tu hành phải tinh tấn.

Ngày xưa chư Tăng Ni thời đức Phật sau khi học hiểu nơi Ngài xong, mỗi vị đều đi nơi này nơi kia để khất thực giáo hóa chúng sanh, ít khi tụ họp lại một chỗ. Vì vậy có những vị mới thọ giới Tỳ-kheo hoặc còn Sa-di, chưa hiểu đạo lý nhiều, đi nơi này nơi nọ thường xảy ra những điều không hay. Do đó đức Phật lợi dụng ba tháng mùa mưa, kêu gọi tất cả Tăng Ni tụ họp lại từng nhóm ở mỗi bản xứ riêng, cùng nhau thúc liễm thân tâm tu hành.

Trong mỗi nhóm có những vị trưởng lão, hoặc Tăng hoặc Ni có kinh nghiệm tu hành dày dặn, chịu trách nhiệm nhắc nhở, dạy dỗ trong nhóm ấy. Làm thế nào sau mỗi mùa an cư, Tăng Ni thêm nhiều công đức, xứng đáng là người xuất gia có đạo hạnh. Vì vậy đức Phật rất quan trọng ba tháng an cư, bởi vì trong một năm Tăng Ni chỉ tụ hội lần này, ở yên một chỗ được nghe nhắc nhở, dạy bảo chăm sóc từng oai nghi cử chỉ nhỏ nhiệm, đó là điều hết sức quí báu. Cho nên sau mùa an cư tới ngày tự tứ tức ngày mãn hạ, chư Tăng Ni mới cầu thỉnh các bậc trưởng lão chỉ dạy những điểm sơ suất của mình, nhờ các Ngài bổ túc cho.

Qua lễ tự tứ chư Tăng chư Ni nhất là hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni được thêm một tuổi hạ, tức một tuổi công đức. Nếu Tăng Ni nào không được tụ họp một chỗ tu hành trong ba tháng, coi như không có tuổi hạ. Tại sao? Vì đức Phật xem như vị ấy không đủ điều kiện để tu hành tinh tấn nên không được nhận tuổi hạ. Tầm vóc của mùa an cư quan trọng như vậy, do đó ngày nay chư Tăng Ni cũng vẫn theo sự sắp đặt trước kia của đức Phật mà ứng dụng tu tập trong ba tháng an cư. Tuy thực hiện theo nếp cũ của đức Phật, song phần lớn ngày nay chúng ta có nhiều duyên sự phải đi đây đi kia, nên mùa an cư không được an ổn mấy, đó cũng là điều thiếu phước của mình. Vì đi nhiều thì xao động nhiều, xao động nhiều thì sự tu không được đầy đủ, nên khó tiến. Đó là tôi nói ý nghĩa của ngày an cư.

Kế đến nói về ý nghĩa tinh tấn của sự tu hành. Tôi đã nhiều lần nhắc tới nhắc lui với chư Tăng Ni rằng chúng ta đi tu không phải do cha mẹ ép buộc, không phải hoàn cảnh bên ngoài bức bách mà do mỗi người tự ý thức, tự tỉnh giác cuộc đời vô thường, đau khổ mà đi tu. Chúng ta tìm đến với đạo để cầu sự an lạc giải thoát. Thế nên làm sao để được an lạc, làm sao để được giải thoát, đó là hai mục tiêu chính mà toàn thể Tăng Ni, không ai có thể lơ là được.

Trước hết tôi nói về niềm an lạc của sự tu. Tôi còn nhớ những năm ở Chân Không, có một số thầy dòng từ Nha Trang, Đà Lạt vào thăm. Các vị hỏi tôi thế này: “Tại sao gần đây chư Tăng Ni cũng như các thầy dòng tu một thời gian rồi ra đời khá nhiều?” Từ bình dân thường dùng là “người tu rụng như sung”. Vì cây sung khi ra bông ra trái rất nhiều, nhưng thời gian sau nó rụng gần hết. Cũng thế, người vào chùa hoặc nhà dòng nhiều nhưng nửa chừng lại bỏ về không tu nữa, tại sao như thế? Tôi trả lời: “Bởi vì họ không tìm thấy được nguồn an vui trong đạo”.

Ở thế gian người ta sống vui vẻ là nhờ hưởng thụ dục lạc. Vì đua nhau tìm hưởng dục lạc nên mỗi người nỗ lực cố gắng tạo điều kiện cho có đủ dục lạc để hưởng, do đó họ quên ngày quên tháng, cứ lao mình trong dục lạc. Tuy nhiên, bên cạnh những kẻ chạy theo dục lạc thế gian, có những người thức tỉnh biết dục lạc là tạm bợ, không có giá trị gì, nên họ bỏ đời vào đạo. Vào đạo vì chán cái tạm bợ, đau khổ ở thế gian. Do đó khi vào đạo, lúc nào người ta cũng nghĩ tìm được nguồn an vui. Nhưng rất tiếc vào đạo rồ21 Tc(Tr)i cũng lẩn quẩn trong những hình thức tu hành mà không tìm được chút thú vui đạo lý nào nên sau một thời gian họ thối tâm Bồ-đề. Tìm vui mà không được cái vui trong đạo nên họ trở lại tìm cái vui ngoài đời. Nên tôi nói sở dĩ họ thối tâm là vì không tìm được nguồn vui trong đạo.

Tăng Ni cũng như những người tu đạo khác nửa chừng bỏ không tu nữa, đó là vì đang hứng thú hay đang chán nản, đang buồn tẻ với sự tu hành? Dĩ nhiên đang chán, đang buồn. Bởi chán buồn nên mới bỏ đạo. Người phát tâm tu thì rất đông nhưng đi nửa chừng, hoặc một phần ba, phần tư đường lại thối tâm. Đó là do đâu mà ra? Ở đây tôi tạm kể những lý do thối tâm của một số người tu chúng ta.

Lý do thứ nhất, trong khi tu không tìm được nguồn an vui nào cả. Cứ lẩn quẩn hết tháng hết năm không thấy chút vui nên sanh chán nản. Lý do thứ hai,trong sự tu hành đa số nghĩ tu sẽ vui, sẽ hạnh phúc. Nhưng không ngờ vào chùa rồi, lâu lâu huynh đệ cũng xảy ra chuyện phiền não. Hạnh phúc đâu chưa thấy mà thấy phiền não nhiều quá. Người này phiền người kia, người kia trách người nọ, đi tìm hạnh phúc mà trái lại gặp phiền não nên đâm ra chán nản. Lý do thứ ba, trong khi tu thiếu tinh tấn nên việc tu không tiến. Ngồi thiền một hai giờ, tiến đâu không thấy mà đau chân gần chết. Thêm buồn ngủ nữa, cứ gục lên gục xuống hoài cho nên muốn thối lui. Lý do thứ tư, trong khi tu ai cũng nghĩ mình sẽ được thầy, cô hay huynh đệ lớn hơn vuốt ve an ủi, nói lời nhẹ nhàng. Nhưng không ngờ được an ủi ít mà bị rầy nhiều. Mất niềm vui được cha mẹ cưng chiều an ủi, vào chùa trông cậy niềm vui nơi thầy nhưng không được nên thối tâm. Đó là những lý do khiến cho người tu dễ thối tâm.

Khi tu được thầy an ủi, vỗ về hay được thầy rầy la, trường hợp nào dễ tu tiến? Nếu người muốn được an ủi vỗ về thì tôi nghĩ nên ở nhà với má chắc sướng hơn. Vì má lúc nào cũng cưng, cũng an ủi mình. Còn vào đạo là lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận mọi khó khổ để tu tiến. Do đó chuyện an ủi vỗ về đối với người quyết chí tu là bằng thừa. Bởi chúng ta đã can đảm, đã quyết tu thì không như những đứa bé nũng nịu đòi cha mẹ nuông chiều. Trong nhà Phật thường nói người tu là người phi thường, là thượng sĩ xuất trần. Xuất trần là ra khỏi sáu trần, thượng sĩ là bậc, bậc thượng ra khỏi sáu trần. Nói cách khác là Bồ-tát ra khỏi sáu trần. Đã là thượng sĩ thì đâu thể yếu đuối, đâu thể nũng nịu như những đứa bé con đòi cha mẹ nuông chiều.

Hồi xưa nhiều vị tu vào rừng, lên núi, ăn trái cây, uống nước suối, ngủ dưới gốc cây, chớ không như chúng ta bây giờ. Ăn thì cơm trắng, uống thì nước lọc, ngủ thì mùng mền đàng hoàng. Như vậy đối với người xưa chúng ta hơn các Ngài vật chất khá nhiều, nhưng lại kém tinh thần quá xa. Vậy nên chúng ta nhớ mình đã quyết chí làm người xuất trần thì đừng đòi hỏi, đừng mong muốn những thứ tầm thường theo thế tục. Chúng ta nên mong muốn vị thầy của mình là người hiểu đạo, người thực tu. Có hiểu đạo, có thực tu mới xứng đáng là thầy của mình.

Trong kinh Trung A-hàm đức Phật dạy, nếu Tỳ-kheo đến trụ xứ nào nương ở tu hành, mà nơi đó thiếu ăn thiếu mặc, thiếu luôn cả giáo lý thì từ giã ra đi, không nên ở lâu. Nếu đến chỗ nào thiếu ăn thiếu mặc mà được sự dạy dỗ, có giáo lý thì cũng phải cố gắng ở lại, không nên đi. Như vậy giá trị của người tu không phải việc ăn việc mặc mà là giáo lý. Quí vị đã có duyên được đến Thiền viện hoặc ở chung quanh Thiền viện, có cơ hội nghe giáo lý, hiểu giáo lý, nên biết nơi đây là duyên tốt xứng đáng cho mình nương gá. Vì vậy phải tinh tấn tu hành, không nên coi thường. Bởi nhu cầu của người tu không phải ở việc ăn mặc mà là ở chánh pháp. Có chánh pháp chúng ta mới biết được hướng đi, biết đường lối tu hành. Nếu không có chánh pháp thì đời tu của mình trở thành trống rỗng, không lợi ích cho mình, cũng không lợi ích cho ai. Cho nên tất cả quí vị tu hành an ổn là nhờ hiểu được chánh pháp. Hiểu được chánh pháp rồi mà không nỗ lực tinh tấn tu thì thật là đáng tiếc.

Tinh tấn theo tinh thần đức Phật dạy là lúc nào chúng ta cũng phải tinh tấn. Có tinh tấn mới có khinh an. Nếu không nỗ lực, không cố gắng thì khó tìm được sự an lạc cho mình. Thiền sư Hoàng Bá có mấy câu kệ nói về sự tinh thần rất hay, “Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”. Nếu không một phen chịu cái lạnh buốt của mùa đông thì khó hưởng được mùi thơm của hoa mai. Chịu được cái lạnh buốt của mùa đông để nói lên sức mạnh tinh tấn khiến cho chúng ta quên đau quên khổ.

Như trên tôi đã nói, ngồi thiền thấy đau nhức mà cứ bắt ngồi hoài nên ngán.Hoặc bị ma ngủ lấn lướt hay ma loạn tưởng quấy nhiễu liên tục, cứ ngồi hàng phục chúng mãi đâm chán. Hàng phục vọng tưởng vừa yên yên một chút thì gục lên gục xuống. Hết đau nhức tới vọng tưởng, hết vọng tưởng tới ngủ gục, lẩn quẩn có ba chuyện đó thì hết giờ ngồi thiền, thành ra đâm chán. Đó là vì quí vị chưa nỗ lực vượt qua được giai đoạn ấy. Ai có kinh nghiệm trong công phu tu sẽ thấy rõ lý do thối Bồ-đề tâm chính từ sự thiếu tinh tấn mà ra. Quí vị gắng nỗ lực vượt qua được đau nhức của chân, vượt qua được các loạn tưởng, vượt qua được buồn ngủ,chừng đó sẽ thấy an lạc đến với mình.

Có hưởng được nguồn an lạc này rồi mới thấy thế gian chưa có cái vui nào sánh kịp với cái vui của người tu. Người đã hưởng được nguồn an lạc trong đạo,dù ai níu kéo hoặc cam kết mọi sự an ổn cho họ để ra đời, họ cũng không bao giờ ra. Tại sao? Bởi vì họ đã thấy cái vui của thế gian là trá hình của đau khổ. Chỉ có vui của đạo mới là niềm vui chân thật. Song niềm vui này chỉ đến với những ai tinh tấn tu hành mà thôi.

Quí vị nhớ chúng ta tu là tu cho mình, chớ không phải tu cho thầy. Ngày nay Tăng Ni thường tu giùm cho thầy, cho Phật chớ không phải tu cho mình. Thầy rung chuông kêu dậy thì ráng ngồi dậy tu, chớ thầy đi khỏi là nằm xuống ngủ liền. Tu như thế là tu giùm cho thầy, không phải tu cho mình. Tu kiểu đó dù một năm, hai năm hay cả đời cũng không bao giờ tiến. Nên nhớ tu là phải có sức tinh tấn, vừa nghe tiếng chuông là trổi dậy ngay, không chần chờ, không đợi kêu réo gì hết. Đâu có ai rủ hay ép mình đi tu, mà bây giờ phải kêu phải gọi. Có vị nào không lạy lên lạy xuống đòi tu cho được, thì bây giờ phải làm bổn phận của mình chứ!

Vì vậy nếu chúng ta là người chân chánh xuất gia, quyết tâm cầu giải thoát thì phải nỗ lực, không được chần chờ, không đợi kêu mời, nhắc nhở, phải tự cố gắng nỗ lực. Có vị thầy nào muốn quở phạt đệ tử hoài đâu. Sở dĩ thầy quở phạt là vì mình chểnh mảng, không muốn học, không muốn làm, không muốn tu. Ngủ kêu không muốn dậy, không rầy sao được. Đó là những điểm yếu dở, nhưng thường chúng ta không chịu nhận lỗi của mình, cứ trách tại sao thầy rầy mình, phạt mình? Ông thầy thâu đệ tử đâu phải để rầy phạt, mà thâu đệ tử vô để hướng dẫn tu hành cho được kết quả tốt, mai sau nối tiếp ngọn đèn chánh pháp của Phật tổ. Đâu ai muốn thâu đệ tử để rầy, rầy chi cho sanh phiền não.

Mục đích ban đầu của chúng ta quá cao thượng, nhưng tới khi thực hành lại lếch bết, lôi thôi, buộc lòng người lớn có trách nhiệm phải rầy phải phạt. Bị rầy phạt mình đâm ra chán, nghĩ sao vào đạo không thấy vui, cứ nghe rầy phạt hoài. Đó là lỗi tại mình mà ra. Nếu một vị tăng hay ni nào vừa nghe tiếng kiểng liền trổi dậy súc miệng rửa mặt, chuẩn bị ngồi thiền ngay, thử hỏi thầy nào rầy được? Khi ngồi thiền đỉnh đạt ngay thẳng, tỉnh táo suốt giờ. Lúc công tác, sai đâu làm tròn đó, bảo đảm trăm phần trăm không ai rầy mình hết. Vì chúng ta không cố gắng, không tinh tấn nên thầy mới quở phạt. Quở phạt mình, thầy cũng đâu có vui.

Như vậy chữ tinh tấn mà chúng tôi đề ra là tinh tấn trong mọi trách nhiệm thầy giao phó, chúng ta phải cố gắng làm tròn. Tinh tấn trong giờ tu, tinh tấn trong giờ học, tinh tấn chinh phục phiền não nữa. Nghĩa là vừa có một niệm buồn niệm chán dấy lên, phải tinh tấn hàng phục liền. Hàng phục bằng cách nào? Nếu khi đang tu mà gặp duyên gì hơi buồn chán, ta nghĩ thôi trở về ở với ba với má khỏe hơn, lúc đó phải thế nào? Phải tự hỏi lại ai bắt mình đi tu? Hồi đi ba má khóc không cho, đến khi vô chùa rồi lại muốn trở về. Tại sao lúc trước anh hùng, bây giờ lại thành kẻ bại trận? Như vậy mình đâu xứng đáng là người quyết tâm đi tu. Nhờ tự nhắc như thế, nên trong lòng mạnh mẽ lên, ta cố gắng vượt qua được tâm trạng buồn chán.

Sự cố gắng có được là do ta biết chinh phục phiền não. Nhiều người ở ngoài xã hội có địa vị chút chút, khi vô chùa tu thấy sao không ai quí mình. Vì tu sau nên bị những người nhỏ tuổi hơn nhưng tu trước chỉ bày quở trách thì nản, tự nghĩ sao đi tu ai cũng xem mình thấp. Đó là điều sai lầm. Đi tu là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Tất cả những thứ giàu sang của thế gian, ta đều bỏ để trở thành một bần tăng hay bần ni. Xả thân cầu đạo là quên thân để cầu đạo. Chúng ta ngày nay ăn rau luộc với nước tương lâu lâu, đã muốn làm reo rồi. Ăn như vầy sao chịu nổi, sao tu được. Như vậy đã quên thân vì đạo chưa?

Thân này không có nghĩa lý gì, dù chúng ta yêu quí nó bao nhiêu, có ngày cũng sẽ bại hoại. Cưng chiều trong sung túc, nhưng rồi cũng đưa tới kết quả tan hoại. Dùng thân bại hoại để cầu cái bất hoại, đó là mục đích chủ yếu của người xuất gia, còn quí thân bại hoại đuổi theo nó mãi sẽ không bao giờ đạt được cái bất hoại. Bại hoại là luân hồi sanh tử, bất hoại là Niết-bàn, vô sanh. Chư Tổ ngày xưa dám hy sinh thân bại hoại này để cầu đạo giải thoát, chớ không quí chuộng nó như chúng ta bây giờ.

Trong giáo lý căn bản của nhà Phật nói các pháp vô ngã. Vô ngã tức là không chủ thể. Muôn pháp đều từ duyên hợp, nên không có cái gì là chủ thể. Thân này cũng do duyên hợp nên không có chủ thể. Đã là vô ngã duyên hợp thì làm sao giữ mãi được? Hiểu được vậy, chúng ta tranh thủ dùng thân tạm bợ vô thường để cầu cái xuất thế chân thường. Trên đường tu chúng ta nỗ lực dù khó khăn mấy cũng không nản, không chán, miễn sao mỗi ngày đều được an ổn tu hành, mỗi ngày đều có tiến.

Bước tiến tuy thầm lặng bên trong nhưng mình có thấy có biết, chớ không phải căn cứ trên những hình thức bên ngoài. Ví dụ ngày xưa quí vị chưa biết đạo, nghe người ta nói nặng một câu thì phiền não cả ngày. Bây giờ mình biết tu rồi, nghe nói nặng một câu, ta cũng có phản ứng nhưng biết kềm hãm lại, không để nó lôi kéo mình mất nhiều thì giờ, sau đó buông xả đi. Người biết buông xả lẹ làng mau chóng, đó là người tu tiến nhanh. Còn người nghe những điều trái tai tuy không nói ra, nhưng ôm ấp ngày này tháng nọ để buồn bực, than phiền, khóc lóc thì tu không tiến chút nào. Vì cái đáng xả lại không xả, đáng vươn lên lại không vươn lên. Ai tu rồi mà vẫn còn cố chấp những lời của thầy rầy hay những phê bình của huynh đệ, ôm ấp buồn tủi mãi là duyên cớ để loạn tâm, dẫn tới thối Bồ-đề tâm. Vì vậy người biết tu là phải biết xả, xả những phiền não đến với mình, vừa đến liền xả. Đó là tinh tấn. Còn nếu ôm ấp chứa giữ mãi, đó là không tinh tấn. Tinh tấn của người tu có những điểm như sau:

Thứ nhất, tinh tấn để khắc phục thói quen lười nhát của bản thân. Đang ngủ mà nghe kiểng thức chúng là trổi dậy liền. Giờ ngồi thiền dù đau nhức cũng phải
cố gắng, nghĩa là thân luôn luôn khắc phục. Đừng để ma ngủ làm chủ, đừng để sự đau nhức chi phối. Chúng ta nhớ phải làm chủ nó để vươn lên. Đó là tinh tấn thuộc về thân.

Thứ hai là tinh tấn thuộc nội tâm. Nội tâm chúng ta thường có những điểm yếu tùy theo mỗi người. Các phiền não dư sót lại chúng ta cố gắng bỏ hết, gạt qua một bên, đừng nuôi dưỡng, đừng chứa chấp chút buồn phiền nào trong lòng, tâm hồn sẽ trong sạch. Mà trong lòng không buồn bực thì ngồi thiền tâm rất nhẹ nhàng,thanh thản. Ngược lại nếu buồn giận ai, ngồi thiền rất nặng nề. Một giờ ngồi thiền là một giờ vật lộn với bao nhiêu vọng tưởng. Tu như thế rất mệt, làm sao có niềm vui nổi.

Ngồi thiền mà tâm chưa an ổn thì chạy theo vọng tưởng hết giờ không hay. Bữa nào ít vọng tưởng thấy thời gian dường như kéo dài, vì chưa quen với sự vắng lặng. Chỉ người ngồi thiền tâm được an định vững vàng, sâu lặng mới thấy thời gian ngắn, mới đó đã tới giờ xả thiền rồi. Kinh nghiệm cho thấy người nào ngồi thiền cứ nhìn đồng hồ hoài, đó là sức an định chưa nhiều. Ngồi thiền tính giờ để trả nợ, giống như người đi làm thuê, dòm xem hết giờ chưa đặng vác cuốc về. Quí vị ngồi thiền cũng vậy, trông cho hết giờ để xong một buổi trả nợ cho thầy, cho Tổ.

Nếu ngồi thiền tinh tấn khắc phục được mọi thứ phiền não, buông xả hết loạn tưởng điên đảo, chỉ còn một tâm an ổn thanh tịnh, được vậy sẽ thấy thời gian qua mau. Buổi ngồi thiền trở thành khinh an, nhẹ nhàng. Tu như vậy mới vui, mới ham tu chứ!

Trong nội tâm chúng ta có những thứ phiền não rất sâu, muốn khắc phục nó thật khó chớ không phải đơn giản. Những phần nổi cạn, mình dễ thấy nên dễ buông bỏ, phần chìm sâu khó thấy nên khó buông bỏ. Ví dụ như đang ngồi yên, bất chợt những niềm vui nỗi buồn tích lũy đâu năm mười năm về trước bỗng trổi dậy. Đây là những hình ảnh tiềm tàng trong tâm thức chúng ta từ lâu nên rất khó buông. Bỏ cái này nó dẫn tới cái kia, nhiều khi mệt mỏi ta đâm ra chán nản.

Ngoài ra về bản thân như ngủ thiếu, ăn thiếu chúng ta cũng cảm thấy khó chịu. Những nhu cầu đòi hỏi của thân, đôi khi làm phiền chúng ta không ít. Vì vậy Phật dạy người tu phải xem thường những đòi hỏi của thân, thấy không có gì quan trọng hết mới thắng được nó. Tăng Ni nên quán chiếu mọi thứ đều là tướng vô thường, bại hoại, có gì phải quan tâm. Đừng để những chuyện bâng quơ giết mất thì giờ quí báu trong lúc tọa thiền.

Nhiều vị xem buổi ngồi thiền như bị bắt buộc phải làm, chớ không thấy đó là thời gian quí báu vô cùng. Thật ra giờ ngồi thiền là giờ quí báu vô cùng, vì đó là
giờ để chúng ta nhận lại cái chân thật của mình, nhận lại hòn ngọc vô giá có sẵn từ lâu, nhưng ta đã bỏ quên. Thấy như vậy mới trân quí, mới nỗ lực trong giờ tọa thiền. Còn ngồi cho rồi, không phải ngồi để thắng được nội tâm của mình, thì sẽ không bao giờ tiến.

Nhớ tới giờ ngồi thiền là chúng ta nhớ tới giờ phút linh thiêng. Cả ngày đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ta chỉ được có mấy giờ quí báu đó nên phải rất trọng, rất quí nó. Qua một phút là tiếc một phút. Bởi vì khi làm việc nhọc nhằn, chúng ta khó làm chủ được, mắt thấy tai nghe đủ thứ nên tâm luôn xao động. Chỉ có giờ ngồi thiền là không nhọc nhằn về thể xác, không thấy nghe những chuyện bên ngoài, ta làm chuyên một việc là chinh phục nội tâm thôi. Nên giờ đó hết sức quí báu, quí vị đừng xem thường, đừng để mất đi. Người nào biết trân quí giờ ngồi thiền, tự nhiên sẽ thấy giá trị và kết quả của ngồi thiền, còn vị nào cho đó là giờ trả nợ, sẽ không bao giờ thấy được giá trị và kết quả của ngồi thiền.

Muốn chinh phục mình, làm sao đừng để nội tâm có những niệm sai lầm, đừng nghĩ giờ này là giờ bị bắt ngồi thiền. Phải biết đó là giờ phút quí báu dành cho mình tu. Nhất là buổi khuya ngủ dậy tỉnh táo, khí hậu mát mẻ, ngồi thiền là cơ hội hết sức tốt để nhận lại cái mình sẵn có. Người dồn hết tâm lực trong sự tu, nhất định sẽ đạt kết quả không nghi. Còn người cảm thấy mình bị bắt buộc tu thì ngàn năm cũng không tiến. Do thấy giờ ngồi thiền quí báu nên chúng ta không dám xem thường, nhờ đó lúc nào cũng nỗ lực tinh tấn. Nếu không thấy như vậy sẽ dễ thối tâm, dễ lùi bước trên con đường đạo. Đó là lẽ thật.

Nên biết tinh tấn là sức mạnh của người tu, bởi vì có cố gắng chúng ta mới vượt qua được những khó khăn. Vượt qua được khó khăn gian khổ, mới có an lạc. An lạc từ thân cho tới tâm. Như Thiền viện qui định mỗi buổi ngồi thiền hai giờ đồng hồ, nhưng người mới vào chùa ngồi hai giờ khó hay dễ? Chắc không dễ. Nó đau thấu xương. Kinh nghiệm của Tăng Ni tại Trúc Lâm, có vài vị tới giờ sau, ngồi khóc thút thít tại chỗ. Lấy làm lạ tôi hỏi, quí vị không dám nói nhức quá khóc, sợ huynh đệ cười yếu đuối, nên nói “Con nhớ má”. Tôi bảo “nhớ má thì về”.

Điều đó không có gì lạ. Bởi vì thời gian đầu đa số người chưa được thuần thục, nên tôi phải đi giám thiền. Tôi giám thiền không ai dám xả chân nên ngồi tới chịu không nổi mới khóc. Khóc như vậy, lẽ ra thầy từ bi dỗ hoặc cho xả chân một chút, nhưng tôi lại làm ngơ, không thèm nói tới, khóc bao nhiêu thì khóc. Mới nghe qua thái độ đó, quí vị cho rằng tôi tàn nhẫn, nhưng thật ra không phải. Như tôi đã nói tu là xả thân cầu đạo, đã xả thân thì mọi khó khổ mình phải vượt qua, chớ khó một chút, khổ một chút cần được vuốt ve an ủi thì xả cái gì. Nhiều khi càng vuốt ve cái ngã càng to, nói gì đến xả thân. Thế nên tôi hay làm lơ trước những thử thách khó khổ của quí vị.

Thấy một đứa bé khóc tôi không nỡ bỏ, nên đến an ủi vuốt ve nó, tại sao thấy thầy cô khóc tôi lại làm thinh? Cho nên quí vị phải hiểu cái làm thinh ấy. Vì đứa bé không nguyện xả thân, còn thầy cô nguyện xả thân. Vì thế tôi phải tạo điều kiện cho quí vị xả thân chứ. Nếu vuốt ve là làm tăng trưởng bản ngã, chẳng những không giúp mà còn gây chướng ngại thêm cho quí vị. Hiểu vậy mới thấy cái tàn nhẫn trong nhà thiền có một ý nghĩa rất trọng đại, giúp cho hành giả thực hiện được bản nguyện của mình, chớ không phải chuyện thường.

Từ sự đau nhức chúng ta chiến thắng được, mới thấy an ổn, sau đó ngồi lâu vẫn bình thường, không khó khăn như buổi đầu. Nếu không cố gắng vượt qua giai đoạn thử thách này thì công phu không làm sao tiến được. Có qua khó khổ rồi mới tới bình yên, không bao giờ mới ngồi kéo chân lên liền được an vui suốt thời. Không có chuyện đó, tất cả đều phải qua giai đoạn khó khổ.

Hôm rồi tôi có hỏi chú thị giả: - Đố chú tu là khổ hay vui? Chú đáp: - Bạch Sư ông, tu là khổ.
- Tại sao khổ mà chú vẫn cứ tu?
- Bạch Sư ông, vì trước khổ mà sau vui.

Trả lời như vậy là cũng thông minh. Bởi thật ra không ai mới tu mà vui liền được, nhất định trước phải khổ. Từ khổ chúng ta cố gắng vượt qua, sau này mới có nguồn vui. Không có chuyện an ổn sung sướng trước mà đi tới kết quả thành đạo. Điều đó đã được thể hiện rất rõ qua hình ảnh của đức Phật. Ngài là một vị Hoàng tử, mà khi đi tu rồi nhất định một mình tay không vào rừng, không nghĩ tới ngày mai đói rét, hiểm nguy thế nào. Bây giờ quí vị đi tu xách theo một đãy tương đối kha khá, vô chùa lại có Phật tử ủng hộ cơm nước không thiếu chi. Chỉ gặp một hai chuyện phiền toái cỏn con thôi, chịu còn không muốn nổi.

Đức Phật nhờ liều chết mới tìm được đạo. Nhưng đâu phải tìm là thành Phật liền, phải qua năm năm tầm đạo, sáu năm tu khổ hạnh, những gì đau khổ Ngài đều nếm trải hết. Khổ hạnh tới phải ngất xỉu dưới đất. Một Hoàng tử cầu đạo xả thân như vậy, còn chúng ta là gì, ông hoàng hay ông nông phu? Vậy mà đi tu
còn đòi cái này cái kia đủ thứ hết, thiếu một chút không chịu. Như vậy ý nghĩa xả thân ở chỗ nào? Do đó tu hoài cũng không tới đâu.

Khi qua Ấn Độ, tới cội Bồ-đề, tôi hồi tưởng lại thấy quả thật đức Phật gan cùng mình. Cây Bồ-đề ở giữa rừng, không có nhà cửa xóm làng. Xứ Ấn Độ lại nhiều rắn độc, Ngài quyết định ngồi dưới cội Bồ-đề đến khi nào thành đạo mới thôi, chết sống gì cũng không dời chỗ. Từ sự xả thân đó đức Phật mới đạt được đạo. Phải chi Ngài cất cái thất trong hoàng cung, có người hầu hạ cơm nước đầy đủ, tu ba tháng thành Phật, thì bây giờ chúng ta đòi hỏi tiện nghi là điều hợp lý. Viện lý do có người phục vụ sung mãn tôi tu mới thành đạo. Chính đức Phật đã hy sinh xả thân cầu đạo nên mới đạt đạo, tại sao ngày nay chúng ta lại không hy sinh, không gắng sức bỏ thói quen tật xấu của thế gian, để tìm cái cao siêu trong đạo?

Đức Phật như thế, chư Tổ cũng như thế. Chúng ta thấy như tổ Huệ Khả chặt tay, tổ Huệ Năng giã gạo, tổ Trúc Lâm tu hạnh đầu-đà… Tất cả quí Ngài cầu đạo đều phải xả thân hết. Tổ Huệ Khả cầu đạo đứng suốt đêm dưới tuyết mà tổ Bồ-đề-đạt-ma mặt lạnh như tiền. Tổ ngồi xoay mặt vào vách, người ở ngoài đứng khoanh tay chờ, Tổ có biết không? Làm gì không biết. Biết mà vẫn thản nhiên, có phải tàn nhẫn không? Nhưng như thế cũng chưa tàn nhẫn mấy, tới khi Tổ xoay ra thấy tuyết lên gần tới đầu gối mà Ngài vẫn thản nhiên nói “muốn cầu đạo vô thượng Bồ-đề, đâu thể dùng chút ít khổ hạnh như vậy mà được ư?”

Còn Lục Tổ tới Huỳnh Mai hỏi đạo, qua cuộc đối đáp ban đầu, Ngũ Tổ thấy có khả năng lãnh hội giáo lý nên Ngài mới bảo xuống nhà trù công quả. Xuống nhà trù không biết ông trưởng nhà trù có ý gì không mà bắt Ngài giã gạo suốt tám tháng. Lúc đó vì quá ốm yếu, Ngài đứng trên cái chày nhưng không đủ sức cho chày cất lên. Nếu là mình, ta sẽ khiếu nại xin thêm người phụ, phải không?Nhưng Ngài thấy mình không đủ lực làm cho cái chày cất lên, thì cột thêm cục đá ngang lưng để đủ sức cất chày, chớ không khiếu nại. Treo đá giã gạo như vậy lâu ngày, sợi dây xiết vô da thịt lở loét tới có vòi mà ngài vẫn không than một tiếng. Tổ vì cầu đạo đã xả thân như thế. Khi Ngũ Tổ xuống thấy liền nói: “Con vì cầu đạo mà quên thân đến thế sao?”

Quí vị ngày nay tới Thiền viện, nhiều lắm là lạy vài ba lạy xin xuất gia. Nếu năn nỉ không được thì thôi về quách cho rồi, tu hành gì mà khó quá! Hoặc hôm nào thầy Tri sự sắp cho công tác hơi nặng, huynh đệ khác làm nhẹ hơn là bất bình ngay. Khiếu nại Tri sự bất công quá, bắt tôi làm cái này nặng gần chết, mấy người kia làm nhẹ… Mấy huynh đệ có ai bị thúi thịt như Lục tổ chưa? Chắc chưa. Vậy mà còn thối tâm thay, huống nữa là có!.

Chúng ta mới thấy người xưa vì đạo quên thân, bởi quên thân nên mới đạt đạo. Còn mình bây giờ quí thân quá nên khó đạt đạo. Thật ra đạo không phải khó tìm mà vì mình quí thân, trọng bản ngã quá cho nên không thấy đạo. Chúng ta đã quyết tu thì phải nhớ gương của người xưa nỗ lực tinh tấn tu hành, đừng yếu đuối, đừng chần chờ, đừng chểnh mảng, mất bao nhiêu thì giờ quí báu. Đó là điều hết sức thiết yếu.

Tinh tấn trong đạo là quên thân cầu đạo, quên tất cả những thứ vui buồn phiền não. Xả bỏ hết cho thân tâm thanh tịnh thì trí tuệ mới sáng suốt. Còn thân tâm bị xáo trộn chao đảo hoài, trí tuệ không bao giờ sáng được. Vì vậy làm sao trong mùa an cư, mỗi vị đều nỗ lực tinh tấn tu hành cho trọn mùa an cư. Sức tinh tấn ấy phải được thực hiện liên tục, không ngừng nghỉ thì mới thấy được kết quả phi thường của nó. Được vậy tôi tin chắc nguồn an lạc sẽ đến với quí vị, từ đó công phu không bao giờ thối chuyển.

Đó là lời nhắc nhở của tôi nhân ngày đầu mùa an cư. Mong tất cả Tăng Ni cố gắng nỗ lực tu hành để khỏi uổng phí một đời xuất gia cao cả của mình.
HT Thích Thanh Từ


TẠI SAO TÔI THEO ĐẠO PHẬT?
Tác giả: Đại Dương

Con người hay thiên nhiên - chỉ với mỗi trái đất thôi - con người cũng đã là quá nhỏ bé, huống chi với vũ trụ thì rõ ràng con người không biết có tỉ lệ nào với vũ trụ cả. Và từ ngàn xưa khi văn minh khoa học chưa  có gì để giải thích các hiện tượng xảy ra ở quả địa cầu chúng ta, lúc đó con người trong cuộc sống hằng ngày thường hay sợ hãi đối với năng lực của thiên nhiên. Do vậy mà con người thường tưởng tượng các vị thần hoặc giả tưởng tượng ra có ông trời là bậc sinh ra mọi việc. Thật vậy chúng ta cũng đã từng thấy trong thần thoại phương đông cũng như phương tây có thần mặt trời, thần sức mạnh, ở núi có sơn thần, ở sông có giang thần , ở biển có long vương, có thần sấm ,thần mưa lũ vv và vv…Lý do con người tạo ra những đấng siêu việt như thế là cốt để làm điểm tựa cho tư tưởng trong việc cầu xin ,và vì lòng tham của con người nên việc cầu xin các đấng siêu nhân đến nay vẫn còn tồn tại đầy rẫy.

Nhưng sự thật có vị thần linh nào ban cho ta những gì ta cầu xin ở họ không ? Chắc chắn rằng chẳng bao giờ có hiện thực. Và vì vậy Tàu có câu nói để đời là :”Nhân nguyện như thử, như thử, thiên ý dị nhiên dị nhiên”, nghĩa là người nguyện là như thế, nhưng ý trời đâu phải vậy. Nói trắng ra chẳng có cái ông trời hay vị thần nào giúp ta cả. Cách đây hơn 2500 năm, xứ Nepal thuộc Ấn Độ, có một vị thái tử sinh ra và ông đã mặc thị “ thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn” nghĩa là trên trời, dưới cũng trời, chỉ có con người là duy nhất, tức là chẳng có ai khác con người, hay chẳng có ai làm gì cho con người. Và cũng vì con người phải tự lo cho con người, hay mỗi bản thân phải tự lo cho mỗi bản thân. 

Một hôm, Ngài trong một ngày đã thấy cảnh sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã suy tư và đi tìm con đường làm sao thoát được bốn cái khổ nầy. Thật vậy khi ta sinh ra có gì sung sướng đâu, ngay cả ta cũng chẳng có ý niệm nào muốn sinh ra, rồi đến già rõ ràng cũng khổ, không biết bao nhiêu việc phiền toái mình không muốn nhưng nó vẫn đến với mình, rồi bịnh cũng khổ và cuối cùng đến chết cũng khổ. Cũng vì để đi tìm con đường làm sao con người thoát được bốn cái khổ lớn ấy, Ngài đã rời gia đình, rời yêu thương quyền quý, tự tu tập, suy nghĩ trong bảy năm. Cuối cùng Ngài đắc đạo dưới cây đại thụ.

Người đời sau đó để kỷ niệm sự đạt chính quả của Ngài mà gọi cây nầy là bồ đề vì đạo của Ngài là đạo Bồ Đề. Mà đạo Bồ Đề là gì ? Bồ Đề chẳng phải là cái cây hay bất cứ hình thức nào. Ngài Lục Tổ Huệ Năng cũng đã cho ta biết Bồ Đề là thế nào theo bài kệ dưới đây:

Bồ Đề bản vô thụ 
Minh kỉnh diệt phi đài 
Bản lai vô nhất vật 
Hà xứ nhạ trần ai.
  
Nghĩa là Bồ Đề gốc không phải là cây, gương sáng cũng chẳng phải là đài, mà tất cả đều là không, thành ra chẳng ở đâu mà bụi bám vào được. Bồ Đề là vô tướng vô sắc. Và người ta tôn ngài là Phật. Phật không tự là một đấng siêu nhiên nào, tự nhiên mà có, mà là tên gọi một nhân vật đã đạt được sự toàn thiện, toàn mỹ. Như vậy hễ ai đạt đến độ toàn thiện, toàn mỹ như Ngài thì được tôn xưng là Phật . Vì thế mà ta đã có hằng hà sa số Phật.

Trở lại như ta đã biết từ ngàn xưa, con người thường tưởng tượng ra những đấng siêu nhân, ví dụ người ta cho có thần mặt trời, thần sấm, thần làm mưa…rõ ràng là chẳng thật. Mặt trời soi sáng, sấm sét, gió bão đó là những sự kiện theo qui luật vật lý. Vũ trụ này đang như hôm nay thì cũng là theo quy luật vật lý mà thành. Khoa học đã chứng minh vụ nổ lớn (big bang) cách đây hơn 13 tỉ năm làm cho nhiều khối tinh vân vô cùng to lớn đã tự tách ra từ đại thể và những khối nhỏ bay ra trong không gian, sau đó sau đó theo định luật hấp dẩn của Newton các khối tinh vân đó tạo thành các hệ, như hệ thái dương, hệ ngân hà, hệ sao chổi v.v… nghĩa là mọi sự việc xảy ra đều do một nhân duyên nào đó thế thôi, chẳng ai tạo ra, và vũ trụ luôn biến đổi chẳng bao giờ ngừng nghỉ.
 
Bây giờ ta thử xem đạo của ngài thái tử đắc đạo là như thế nào?  

1.-Khi đạt được chánh đẳng chánh giác, ngài đã bảo với mọi người là: “Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành, tức là, ai cũng có thể thành Phật. Đây là điều nói lên sự bình đẳng, nghĩa là ta cũng chẳng có gì khác người, các người cũng như ta, miễn là cũng tu tập như ta. Trong thân phận trước khi xuất gia, Ngài là một thái tử quyền uy và giàu có, lại là người đã thành chánh quả, nhưng Ngài không độc tôn, tự tôn. Rõ ràng Ngài là hiện thân cái vĩ đại của những vĩ đại. Ngài bình đẳng như mọi người, cái mà chẳng ai làm được. 

2.-Về con đường tu tập, Ngài cũng đã nói rất rõ con đường đó, nhưng về cách đi thì Ngài dạy rằng: "Các người hãy thắp đuốc các người đi ". Đây là điều nói lên sự tỉnh thức và giác ngộ trong tinh thần tích cực. Đúng, như chúng ta bây giờ chúng ta muốn đến đâu thì chúng ta tự đến đó, sẽ không có chuyện tự nhiên mà ta từ điểm A đến điểm B. Ta muốn đắc đạo thì ta phải tu tập. Như ngay cả việc muốn trở thành người thì loài linh trưởng, như khoa học đã chứng mimh, phải tự tiến hóa hàng triệu triệu năm, không ai sinh ra con người cả.

3.-Về nhân và quả, Ngài cũng dạy rằng nhân nào thì quả ấy. Hễ nhân lành thì quả sẽ lành, còn nhân ác thì sẽ gặp xấu. Đây là một điều công bình, không có gì phải cầu xin, và cầu xin thì cũng chẳng bao giờ có. Chỗ này cũng xin nói đến Phật  giáo có cầu siêu không ? 




Trong quan niệm chết là sự biến dạng của nghiệp thức về sự sinh và tử nầy, Phật giáo có hai quan điểm, một là tái sinh tức thì, hai là qua giai đoạn chuyển tiếp thân trung ấm nghiệp lực của mỗi chúng sanh. Quan điểm đầu cho rằng tái sanh xảy ra tức thời trong một sát na niệm tưởng, không để trống một khoảng khắc nào. Sự sinh tử theo quan điểm này xảy ra cực kỳ nhanh chóng và được xem là một tiến trình liên tục. Còn quan điểm thứ hai cho rằng một số trường hợp phải qua một sự chuyển tiếp, ở đó chúng sinh mang dạng “thân trung ấm “ lưu lại trong khoảng thời gian từ một đến bảy tuần lễ, thông thường thì thọ sinh là bảy ngày, tuy cũng có thể lâu hơn nữa do sở duyên chưa thích hợp.

Quan điểm tái sinh tức thời được khẳng định bởi giáo lý nguyên thủy. Do quan niệm hiện tượng chết và tái sinh diễn ra tức thời và không có cái gọi là linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào của Phật giáo nguyên thủy, nên có thể nói rằng Phật giáo không có nghi lễ cầu siêu, vì cầu siêu không có tác dụng gì đến người đã chết, chỉ tốn công mất của mà thôi. Có nghĩa là khi người nào đã tạo ra nhân thế nào thì quả của họ là thế ấy, không có gì để cầu xin, ví như ta bỏ thùng dầu dưới đáy hồ rồi đập thùng đi thì chắc chắn dầu sẽ nổi lên dù cho một số đông đảo quần chúng có cầu khẩn, chắp tay cầu rằng số dầu ấy chìm thì dầu cũng không làm sao chìm được.

Thật ra Phật giáo Bắc tông truyền từ Ấn Độ qua các nước phương Bắc như Trung hoa, Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam trong khoảng 500 năm đầu cũng không có  nghi lễ cầu siêu cho người đã chết. Nghi lễ này thật sự chỉ bắt đầu từ đời Lương Vũ Đế (464-549) qua lễ từ bi đạo tràng sám pháp và lễ Thủy lục Không pháp hộ siêu độ. Đến đời vua Đường Minh Hoàng (685-762) Thủy lục Không trở nên rất phổ biến và trở thành nghi lễ chính thức để cứu độ những người chết trong chiến tranh và lễ nầy được truyền sang Việt Nam sau đó. Vì thế lễ cầu siêu đó ngày nay tại Việt Nam chỉ là hình thức văn hóa của Trung hoa pha trộn cho với đạo Phật.

Theo pháp sư Đạo An (sinh vào khoảng 312 -314(?) dưới thời Hoài Đế nhà Đông Tấn ) Ngài là ưu kiệt danh tăng của Phật giáo Trung hoa. Ngài là người đầu tiên khởi xướng việc lấy họ Thích làm họ chung cho người xuất gia và điều nầy đã thành thông lệ cho đến ngày nay thì nguồn gốc siêu độ ở thời đức Phật không có. Phật giáo truyền đến Trung quốc ở thời kỳ đầu cũng không ghi chép sự việc nầy. Thời Đường Minh Hoàng vì quá sủng ái Dương quí Phi nên có loạn An lộc Sơn. Nhờ Quách Tử Nghi, đại tướng đương thời mới bình định được cuộc nổi loạn, triều đình lệnh tại mỗi chiến trường chính xây dựng một miếu thờ gọi là Khai Nguyên tự vì đúng vào niên hiệu Khai Nguyên, thỉnh cao tăng, đại đức tụng kinh bái sám truy điệu cho quân dân tử nạn. Đây là lễ truy điệu do triều đình cử hành gọi là pháp hội siêu độ. Từ đó dân chúng học theo, mỗi khi có người qua đời người dân cũng thỉnh pháp sư đến làm Phật sự siêu độ tạo ra phong tục cho đến ngày nay. Nói tóm lại Phật giáo không có lễ Cầu siêu.

4.- Mặc dù Ngài đã đắc đạo, và những gì Ngài nói đều chân thật và rõ ràng, nhưng Ngài cũng đã nói: "Ta nói nhưng các ngươì chớ vội nghe ta". Đây là sự tự do chọn lựa, không bắt buộc ai chưa rõ, chưa biết mà tin. Cứ tự do suy nghĩ rồi đến với ta hay không đến với ta. Đây là tinh thần dân chủ không giáo điều.

5 .-Đức Phật chẳng ban cho ai cái gì và cũng chẳng ban được cho ai cái gì. Mà cái gì ta có là tất cả do ta làm, chẳng khác gì một người cha có sự học vấn uyên bác, nhưng người con không chịu học, lêu lỗng thì người cha cũng không thể cho con cái uyên bác của mình được. Con muốn uyên bác thì phải học tập như người cha, thế thôi, công bình.

6.- Đức Phật cũng không phải tu tập riêng cho cá nhân mình, mà chính Ngài đã đi tìm con đường cho chúng sinh, nên đã đem tất cả những gì ngộ chứng truyền đạt lại cho chúng sinh. Ngài muốn tất cả chúng sinh cũng đều đạt  được như Ngài. Đây là tinh thần bác ái vĩ đại. Ngài đã vì chúng sinh.

7.- Đức Phật vì chúng sinh cho nên Ngài cũng  khuyên ta không được sát sinh. Ngài quan niệm tất cả động vật, kể cả con người đều là chúng sinh. Rõ ràng Ngài là người vô cùng nhân ái, đạo đức. Ngài không bao giờ nói đến sự trừng phạt ai. Ngài cũng chẳng bao giờ nói rằng nếu không nghe ta người sẽ vào địa ngục. Không và không bao giờ.

8.- Đạo của Ngài là đạo khoa học: trong quy trình cấu tạo vũ trụ hoặc nhân sinh, Ngài cho rằng đều do từ mười hai nhân duyên mà thành. Ngài cho rằng, nhà bác học Pháp Lavoisier cũng đã chứng minh: vật chất không thể mất đi mà chỉ biến dạng hình hài. Còn vấn đề chẳng dơ chẳng sạch thì sao? Lấy ví dụ khi ta ăn thức ăn, lúc đó ta cho là sạch nhưng khi thức ăn được tiêu hóa thì nó được ta gọi là dơ. Vậy dơ hay sạch chỉ là do sự biến hóa qua lại. Miếng cá sống ta không thể ăn được vì cho nó là tanh, nhưng khi nấu chín thì nó trở thành ngon. Tại sao cũng miếng cá đó mà lúc thì cho là tanh, lúc thì cho là ngon? Ấy cũng chỉ vì tác dụng qua lại của vật chất và nhiệt. Cho nên nói về khoa học trong học thuyết của Phật, nhà bác học Albert Einstein có phát biểu như sau :" nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo."

"Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học, cũng như vượt qua khoa học. Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên, đặt trên căn bản đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lãnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng các điều kiện đó."

Trong Phật giáo không chấp nhận cầu xin, số mạng. Cầu xin tức là tiêu cực, còn Phật giáo là đạo tích cực, đạo của tỉnh thức và giác ngộ. Phật giáo cũng không công nhận ai có quyền ban cho, và cũng chẳng ai ban cho được. Còn số mạng thì rõ ràng  chẳng có, bởi nếu con người có số tức có đấng nào đó ban cho mỗi cá nhân mỗi số mệnh. Và trong thực tế mỗi người có cuộc sống và tư tưởng hoàn toàn khác nhau: kẻ giàu sang, kẻ khốn cùng, kẻ thông minh, kẻ u tối. Như vậy đấng nào đó đã không công bình khi ban cho con người một cái số như vậy. Như thế ta có thể nào tôn trọng đấng đó không, vì đấng ấy rõ ràng đã hành động không công bình. Như vậy rõ ràng là chẳng  có gì là số mạng cả vì chẳng ai ban cho ta cái số. Nghĩa là tất cả đời ta đều  do duyên và nghiệp cấu thành.

Trong chế độ Cộng sản, ai cũng biết là Cộng sản chủ trương ba không: không  gia đình, không tổ quốc, không tôn giáo. Với tôn giáo họ cho đó là thuốc phiện, là thứ ru ngủ tâm hồn yếu đuối. Với gia đình, họ cho đảng là đại gia đình, theo đảng là phải bỏ gia đình, nên trong cuộc cải cách ruộng đất, tổng bí thư Trường Chinh đã đấu tố cha mẹ. Còn vô tổ quốc vì họ chỉ biết một thế giới đại đồng trong chủ nghĩa Cộng sản, không có ranh giới quốc gia. Cũng vì thế mà Cộng sản luôn đánh phá tôn giáo và Phật giáo không nằm ngoài mục tiêu của họ.




Thực tế sao hạn là cái gì? Mà làm sao giải? Phật có nói chổ nào trong kinh là sao hạn đâu?  Những giả sư nầy cố tạo những người có tâm phật thành mê tín vu vơ. Nếu có nhiều người mê tín tức là Cộng Sản đã thành công vì đã phá hoại được Phật Giáo chân chính lại được có nhiều tiền. Khi ta tới những chùa của các giả sư nầy, ta có cảm tưởng đây là một hồi trong truyện Tây Du Ký Diễn nghĩa của Ngô Thừa Ân. Trong truyện, bọn yêu quái thường biến những cảnh chùa thành tiểu lôi Âm đánh lừa thây Đường Tăng vào bắt để ăn thịt. Bọn yêu quái cho rằng ăn được thịt Đường Tăng thì sẽ sống cả ngàn năm. Mà Thầy Đường Tăng trong truyện là đại diện cho tâm Phật, Tôn Ngộ Không đại diện cho trí tuệ, Bát Giái đại diện cho bản chất trần tục, Sa Tăng đại diện cho tâm, con ngựa đại diện cho phương tiện.

Ở đâu, trong nước hay ngoài hải ngoại, bọn giả sư cũng giống như bọn quỷ trong truyện Tây Du. Tất cả đều muốn ăn thịt hút máu những người có tâm Phật. Tuy nhiên, trong truyện Tây Du, bọn quỷ không bao giờ ăn thịt được Đường Tăng, nhưng bọn giả sư ấy giờ đã hút được khá nhiều máu của những người có tâm Phật hiện tại. Và như vậy, trong tương lai, Cộng Sản có triệt tiêu được Phật Giáo không? Xin thưa: không bao giờ. Không phải ai cũng mê tín nghe theo bọn đầu trọc giả sư đó. Từ xưa, ở nước ta cũng đã có nhiều lần Phật Giáo bị đánh phá, nhưng Phật Giáo vẫn tồn tại và phát triễn đến ngày nay. Như Đại Sư Mãn Giác đời Lý (ông tên tục là Nguyễn Trường – thường gọi là Lý Trường – Thân phụ là Hoài Tố, người dất Lũng Triền, Hương An) có thơ rằng
“Mạc vi xuân tàn hoa lạc tận
“Tiền đình tạc dạ nhất chi mai”
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai)
Xuân có tàn, hoa vẫn còn chẳng bao giờ rụng hết! 

Tóm lại, đạo  của Phật là đạo của: tự do, dân chủ, công bình, bác ái, tích cực, tỉnh thức, giác ngộ, khoa học, không giai cấp, không tự tôn. Những điều nầy là những điều mà tất cả loài người tiến bộ trên thế giới đang đấu tranh để đạt đến. Cũng vì thế nên tôi theo đạo Phật.



LOẠN CHUẨN CẦU XIN CÚNG VÁI
TS Vũ Hồng Thuật chia sẻ.
 
 Quan sát đám đông đi xin xỏ thánh thần mới thấy chưa bao giờ người Việt trở nên mù quáng, thực dụng và ích kỷ đến thế. Tình trạng loạn chuẩn hành vi cầu cúng tại các đình chùa thậm chí tại bàn thờ gia đình đang làm hỏng hình ảnh tín đồ tâm linh nói riêng và người Việt nói chung.

Các con nhang đội mâm chen bằng được vào chính điện.
Việt Nam có khoảng 11 triệu tín đồ Phật giáo (số liệu ước tính của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2013). Số lượng Phật tử chính thức chiếm thiểu số, trong khi Phật tử tín ngưỡng (không thừa nhận là Phật tử trong giấy tờ) chiếm nhiều hơn. Hiện con số chính thức về Phật tử tín ngưỡng là vấn đề đang còn tranh cãi, chỉ biết rằng số lượng người có nhu cầu đi chùa, cúng bái tăng lên chóng mặt cùng dịch vụ tôn giáo tín ngưỡng. Nhiều công ty dịch vụ tâm linh quảng cáo trên mạng với chiêu riêng hút khách khiến bản chất tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt bị thay đổi rất nhiều, tam sao thất bản, khó mà phân định đâu là tôn giáo, đâu là tín ngưỡng, đâu là niềm tin. Tình trạng như một “nồi lẩu” các chỉ dẫn của người thực hành tôn giáo, dẫn đến mâu thuẫn, dẫm chân lên nhau.

Muôn sự tại… đa thần
Lý giải tình trạng loạn chuẩn tín ngưỡng, TS Nguyễn Quốc Tuấn, (Viện trưởng Viện nghiên cứu Tôn Giáo) cho rằng sau năm 1954 do ngắt quãng thực hành tôn giáo trong một thời gian dài nên người Việt bị cắt đứt giáo dục về tập tục và truyền thống thờ cúng. Mù về nghi thức, bộ phận đông trong cộng đồng cùng lúc tin và thực hiện hành vi tôn giáo khác nhau. Họ đi cả chùa, đền, phủ, khấn vái cả hòn đá, cái cây ven đường. Sự cầu cúng mù quáng là chỉ báo về niềm tin không ổn định, níu kéo thói quen đa thần giáo. Ngoài ra cơ chế thị trường có tác động gây tính thực dụng, trục lợi của người tham gia cầu cúng. Quan điểm của TS Tuấn là: “Qui chuẩn tôn giáo xưa đã bị phá, không nên nghĩ đến việc xây lại như cũ mà cần tạo ra nếp mới phù hợp với xã hội VN hiện đại. Cách tốt nhất, các nhà nghiên cứu và nhà quản lý cần ngồi lại và tìm ra tiếng nói chung”
.
Đồng  quan điểm với TS Nguyễn Quốc Tuấn, PGS TS Bùi Quang Thắng (Viện Văn hóa Nghệ Thuật Quốc gia VN) cho rằng văn hóa truyền thống VN dựa trên nền tảng tín ngưỡng “Vạn vật hữu linh”, cho đến giờ trong sâu thẳm người Việt vẫn tin mọi vật đều có hồn. Trong lúc cầu nguyện, số đông vẫn mang tâm lý xin xỏ đổi chác với thần và ma , cầu cạnh trợ giúp từ hồn người đã khuất. 

PGS Bùi Quang Thắng  nêu giải pháp bằng quan điểm gián tiếp: Về nguyên tắc độc thần giáo (Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo) là tôn giáo phát triển nhất của xã hội loài người nhưng ở VN, các tín ngưỡng, tôn giáo vẫn trong tình trạng hỗn dung với “vạn vật hữu linh” và đa thần giáo nên niềm tin của tín đồ các tín ngưỡng này không có ý nghĩa tinh thần tuyệt đối mà vẫn mang tính trao đổi trục lợi. Vai trò của các tôn giáo độc thần  rất quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người. Chừng nào Phật giáo vẫn còn pha trộn tín ngưỡng dân gian, chừng nào chùa chiền và giới tăng lữ còn lấy mục tiêu kinh tế làm trọng, thậm chí có cả hiện tượng “buôn thần bán thánh”, thì chừng đó chưa có giới Phật tử theo đúng nghĩa. Điều đó ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đến Phật tử mà còn đến cả quảng đại quần chúng.

Sư và thầy cúng: quyền hạn vô lối:
Cuốn “Lịch vạn niên” được xem là cuốn cẩm nang để xem ngày giờ tốt- xấu để làm các công việc đại sự cũng có nhiều vấn đề cần phải bàn luận bởi tính khoa học của nó. Thử đối chiếu giữa cuốn “Lịch vạn niên” của năm nay so với năm ngoái (2015), có nhiều ngày, giờ nội dung trùng nhau, thậm chí không sai dấu phẩy, bởi người làm sách chỉ copy của năm trước vào năm sau (?!). 

Theo TS Vũ Hồng Thuật (Bảo tàng Dân tộc học VN), không ít các thầy cúng bốc bát hương thờ thần tài không biết viết chữ Hán trên “cốt” bát hương, thậm chí họ còn không biết tên thật, tên hiệu của vị thần tài là gì, nguồn gốc lý lịch của vị thần tài như thế nào. Vậy làm sao nghi lễ linh thiêng và linh nghiệm được.

Hiện nay, có nhiều thày cúng kết hợp với nhà sư trụ trì các ngôi chùa để tổ chức nghi lễ cầu an, giải hạn, cầu siêu, cầu đảo…với giá tiền từ vài chục triệu đồng lên tới 200 triệu đồng (lễ gửi vong lên chùa). Có ê kíp sư và thày xù cả buổi lễ của khổ chủ để chạy đi phục vụ một gia chủ trả giá cát-sê cao hơn. Có vị sư nói với TS Thuật “Ông đừng vạch áo cho người xem lưng. Để chúng tôi còn cửa làm ăn”. Nghề này đáng ra là làm phúc thì chúng ta đang giết phúc của chính mình, TS Thuật than thở. Có vị quản lý trong Hội Phật giáo từng thú nhận với ông rằng “Có khoảng 90% nhà sư coi việc xuất gia tu hành là một nghề để mưu sinh, họ có đầy đủ tiện nghi sinh hoạt rất vương giả. Số còn lại chỉ 10 % nhà sư xuất gia tu hành với lòng mộ đạo và mong muốn thấu hiểu chân lý nhà Phật”.

Vừa thực dụng vừa mông muội:
Một ông đồng kiêm thầy cúng, pháp sư kể cho TS Thuật câu chuyện ứng xử kỳ cục của một số tiểu thương ở phố cổ Hà Nội. Cứ khoảng vài ngày mà không trúng lô đề hay buôn bán thua lỗ thì họ lại đổ vạ cho Thần Tài. Họ nhốt Thần Tài, Thổ Địa  vào trong tủ lạnh cho nhịn đói, chết rét. Đến hôm trúng được đề thì họ mới mang tượng hai ông ra đặt vào vị trí cũ của ban thờ, cúng tạ xôi thịt tú ụ.  “Tốt lễ dễ kêu”, các đồng, thầy khuyến khích người cầu cúng vung tay sắm lễ, vừa để lấy lòng phật thánh theo lối tư duy “trần sao thánh vậy” vừa thể hiện đẳng cấp. 

Vào khoảng 10 năm trước đây, có câu chuyện từng gây xôn xao dư luận. Một nhà sư nữ bắc ghế hầu đồng tại Phủ Bóng – (Phủ Giầy Nam Định) với lòng thành tâm hướng đến “Công đồng thánh mẫu” bằng cái tâm của nhà Phật nên lễ vật rất đơn sơ và phát lộc cho cung văn, khách tham dự hầu đồng chỉ mang tính tượng trưng.  Tỏ thái độ coi thường và miệt thị người hầu đồng kể trên, một ông đồng ở phố Trần Xuân Soạn (Hà Nội) là người nổi tiếng giàu có đã lấy cả mâm tiền của mình hất lên đầu vị sư đang làm lễ hầu thánh. Dân địa phương cũng như khách vãng lai xem dự hầu đổ xô vào cướp lộc, dẫm đạp, nô giỡn làm cho vị sư ngã ngửa trước điện thờ với tâm trạng buồn tủi.

Dịch vụ tôn giáo tín ngưỡng đang lộng hành và người chịu lễ (làm lễ) đang rơi vào tình trạng hoang mang, không được phép cự cãi trong khi chưa biết tìm thông tin chính xác từ đâu. Hiện chưa có chế tài cụ thể cho những người hành nghề dịch vụ tôn giáo, tín ngưỡng, TS Vũ Hồng Thuật chia sẻ.
Hỏi về ranh giới giữa niềm tin và mê tín dị đoan TS Thuật đưa ra ví dụ, ngày xưa cúng cô hồn, thày cúng chỉ búng ba hạt cơm và đọc ba câu niệm chú. Ngày nay có nhiều thầy cúng, ông đồng, bà đồng chẳng biết đọc chính xác được câu niệm chú mà họ chỉ tập trung vào việc vãi hàng cân gạo và muối ra  đường. Người ta cứ  nghĩ vãi càng nhiều gạo, muối càng thu nhiều phúc lộc. “Thế là ngu muội, là lãng phí chứ đâu”.

TS Vũ Hồng Thuật nhận định: Có ba nguyên nhân gây nên sự lệch chuẩn về hành vi ứng xử trong tâm linh là chính sách-sự đứt gãy văn hóa- quyền hạn vô lối trong tay các thày cúng  và sự quá lạm dụng  niềm tin vào thế giới vô hình. 
TS Nguyễn Quốc Tuấn (Viện nghiên cứu tôn giáo): Phải có nghiên cứu cơ bản phù hợp với  khung tham chiếu xã hội VN hiện đại. Câu chuyện không thể giải quyết trong phạm vi một vài hội thảo hay vài ba bài viết là đủ.


AN CƯ KHO BÁU NIỀM TIN VÀ TRÍ TUỆ
PHÁP TU CĂN BẢN CỦA PHẬT TỬ
NGUỒN GỐC CỦA KHỔ ĐAU (CTLĐ TẬP 1)