Thursday, September 1, 2011

*** MẸ TRONG GIẤC MƠ



Cháu tên UUDAM, người Mông cổ
Cháu muốn phát minh ra một loại mực đặc biệt, mà khi đổ xuống đất nó sẽ biến cả trái đất thành cánh đồng cỏ xanh tươi.
Mẹ cháu đang ở trên trời.
Cha cháu qua đời trong một tai nạn giao thông.
Hôm nay cháu sẽ hát. Bài hát tên là Eej in the dream.
Eej nghĩa là mẹ
Cháu hát bài này mỗi khi cháu nhớ mẹ cháu.

********************
Trong đất trời bao la rộng lớn.
Em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em.
Mẹ đưa cho em sữa, thứ quí giá của đất trời.
Mẹ của em ở một nơi rất xa.
Trong khi những vì sao lấp lánh trên đồng cỏ xanh,
Em lại nghĩ về khuôn mặt ân cần của mẹ.
Mẹ ở thiên đường và cầu nguyện cho em một cuộc sống bình an, hạnh phúc.
Mẹ em đang ở một nơi rất xa.
Trong giấc mơ, em thấy ngôi nhà thân yêu của em hiện ra dưới ánh nắng mặt trời.
Và mẹ em đang hát những khúc ca êm đềm.
Có một dãi cỏ xanh trải dài trước nhà em.
Mẹ em đang ở một nơi rất xa và chờ đợi em trở về..
Mẹ ở thiên đường và cầu nguyện cho em một cuộc sống bình an, hạnh phúc.

Gởi cho mẹ những bông hoa thánh sương.
Con có thể cảm nhận được từ ánh mắt của mẹ.
Con của mẹ đã bị đánh thức bởi giấc mơ.
Hãy đến đây mẹ của con.
Con mơ cỡi chim hạc bay trên bầu trời.
Con mơ mẹ mang hạnh phúc cho con.
Con trai của mẹ đang đến và làm ơn hãy đợi con.
Mẹ ở thiên đường và cầu nguyện cho em một cuộc sống bình an, hạnh phúc.
Mẹ ở thiên đường và cầu nguyện cho em một cuộc sống bình an, hạnh phúc.
Mẹ ở thiên đường và cầu nguyện cho em một cuộc sống bình an, hạnh phúc.

Bài hát chính là loại mực đặc biệt biến nơi phiền muộn này thành cánh đồng cỏ xanh tươi để mọi người lại được sống một cuộc sống vui vẻ hạnh phúc.

Mẹ ơi con nhớ mẹ lắm.


Muốn khóc thì khóc đi cháu, giống như cô đây rất thích khóc.
Mỗi khi cháu muốn khóc thì nên làm cho mình khóc ra.
Chỉ có những người khóc sẽ biết làm thế nào để tìm được nụ cười.


TÌNH YÊU MỘT NGƯỜI MẸ DÀNH CHO CON



Có thể cho con sống trong một căn nhà rộng, ăn những bữa ăn ngon, học đàn dương cầm và xem một máy TV lớn. Nhưng  người Mẹ ra sân cắt cỏ, làm việc nặng hãy để cho con biết sự cực nhọc khi phải làm những việc ấy.
Một cậu thanh niên có trình độ học vấn cao, thành phần ưu tú, đi xin một công việc trong ngành quản trị tại một công ty lớn. Anh qua khỏi chặng phỏng vấn đầu tiên;

Người giám đốc phụ trách cuộc phỏng vấn cuối cùng và sẽ là người quyết định có nên mướn cậu hay không. Ông ta khám phá ra trong học bạ của cậu thanh niên là các điểm số từ những năm trung cho đến cao học, anh thanh niên đều đạt điểm xuất sắc. Không có năm nào xuống thấp.

Người giám đốc hỏi: 

-Thế anh có lãnh học bổng gì không?
Cậu trả lời:
-Không. 
Người giám đốc hỏi:
-Có phải cha anh đã trả mọi học phí phải không?
Cậu thanh niên trả lời:
-Cha tôi đã qua đời khi tôi vừa được một tuổi, chính mẹ tôi là người trả học phí cho tôi. 
Người giám đốc hỏi:
-Thế mẹ cậu làm việc ở đâu?
Cậu thanh niên trả lời:
-Mẹ tôi làm nghề giặt đồ mướn.  
Người giám đốc bảo cậu thanh niên đưa hai bàn tay cho ông xem, cậu thanh niên đưa hai bàn tay ra, da dẻ mịn màng không sứt mẻ gì.

Người giám đốc hỏi:

-Thế có bao giờ cậu giúp mẹ cậu giặt giũ gì không?
Cậu thanh niên trả lời:
-Không bao giờ. Mẹ tôi muốn tôi học hành và đọc nhiều sách, hơn nữa mẹ tôi có thể giặt giũ nhanh hơn là tôi.


Người giám đốc nói: 

-Tôi có một yêu cầu, khi cậu trở về nhà hôm nay, hãy  giúp mẹ cậu rửa hai bàn tay của bà, và đến gặp tôi vào sáng ngày mai. 


Người thanh niên cảm thấy cơ hội được việc làm của cậu gần như chắc chắn, khi về đến nhà cậu vui sướng muốn gặp mẹ để rửa tay cho bà. Người mẹ của cậu lấy làm lạ, vừa sung sướng nhưng cũng hơi sợ hãi, bà đưa hai bàn tay ra cho con.



 
Cậu con trai rửa hai bàn tay của mẹ một cách chậm rãi. Trong khi rửa bàn tay của mẹ, những giọt nước mắt rơi xuống. Đây là lần đầu tiên cậu khám phá ra bàn tay mẹ thật nhăn nhúm, và có nhiều vết trầy xước sâu trên da. Có vài vết thương đã làm bà đau đớn đến nỗi phải run lên khi bàn tay nhúng vào nước. 
Đây là lần đầu tiên cậu thanh niên nhận ra và cảm nghiệm được rằng chính đôi tay này đã giặt giũ mỗi ngày để kiếm tiền nuôi mình ăn học.
Những vết thương trên bàn tay là cái giá mẹ anh phải trả để cho anh tốt nghiệp đại học, để đạt được những điểm cao trong các kỳ thi cử, và có lẽ cả tương lai về sau của cậu đã tùy thuộc vào hai bàn tay này. Sau khi rửa xong hai bàn tay của mẹ, cậu thanh niên lẳng lặng giặt tiếp cho mẹ những quần áo còn lại. Đêm ấy hai mẹ con nói chuyện với nhau thật lâu.
Sáng hôm sau cậu lại đến văn phòng gặp người giám đốc. Thấy những giọt lệ long lanh trong đôi mắt của cậu thanh niên,

Ông hỏi; Anh có thể thuật tôi nghe những gì anh đã làm và học được tại nhà ngày hôm qua hay không?.


Cậu thanh niên trả lời: Tôi rửa tay cho mẹ tôi và giặt số quần áo còn lại cho mẹ tôi. 
Người giám đốc nói: Anh vui lòng kể tôi nghe cảm tưởng của anh như thế nào?
Cậu thanh niên nói:

** Điều thứ nhất: tôi đã hiểu thế nào về sự cảm kích; không có mẹ tôi thì đã không có một thanh niên thành công trong học vấn như tôi ngày hôm nay. 
** Điều thứ hai: tôi đã biết làm việc chung với mẹ tôi ra sao, rất khó khăn để có thể hoàn tất một công việc. 
** Điều thứ ba: tôi đã hiểu tầm quan trọng và sự thiêng liêng của những quan hệ gia đình. 

Người giám đốc nói: Đấy chính là điều tôi đòi hỏi. Tôi muốn mướn một nhân viên biết cảm kích về sự giúp đỡ của kẻ khác, một người có thể cảm thông được những nhọc nhằn mà người khác trải qua, để hoàn thành công việc của họ. Một người không theo đuổi tiền bạc như một cứu cánh duy nhất của cuộc đời, và như vậy mới đúng là người quản trị mà tôi đòi hỏi. Bạn đã được chấp nhận vào Công Ty!
Về sau, người thanh niên trẻ này làm việc rất siêng năng và được sự nể nang của thuộc cấp. Mỗi nhân viên đều chuyên cần làm việc trong tinh thần đoàn kết, do đó công ty đã có nhiều thành quả tiến triển vượt bực.



Một đứa trẻ được cha mẹ cưng chiều và cho mọi thứ nó đòi hỏi sẽ phát triển một tinh thần "Muốn Gì Được Nấy" tự đặt mình trên hết. Nó không biết được những lao khổ của cha mẹ.
  Khi lớn lên và đi làm việc, nó giả định là mọi người đều phải nghe theo nó, và khi thành một quản lý hay giám đốc, nó sẽ không biết được những nhọc nhằn của những người thuộc cấp và luôn luôn đổ thừa họ khi có những thành quả không ưng ý.

Đối với những hạng người này, có thể họ đạt thánh quả cao về học vấn, thành công trên đường đời một lúc, nhưng không thực sự cảm thấy thỏa mãn trong sự nghiệp của mình, họ sẽ lầm bầm và đầy sự ganh ghét, và họ sẽ tranh đấu để dành lợi lộc nhiều hơn. Nếu chúng ta là cha mẹ cưng chìu con, chúng ta đã thực sự yêu nó hay vô tình phá hủy cuộc đời của một đứa trẻ?
Bạn có thể cho con bạn sống trong một căn nhà rộng, ăn những bữa ăn ngon, học đàn dương cầm và xem một máy TV lớn. Nhưng khi bạn ra sân cắt cỏ, hãy để cho con bạn nhúng tay vào để biết sự cực nhọc khi phải làm việc ấy. 
Sau bữa ăn hãy để nó tự rửa lấy chén bát cùng với anh chị em của nó. Đó không phải vì bạn không đủ tiền mướn người giúp việc, nhưng chỉ vì bạn yêu con bạn đúng cách. Bạn muốn chúng hiểu rằng dù cha mẹ chúng có giàu đến bao nhiêu, nhưng một ngày kia tóc cũng điểm hoa râm trong mùa thu của cuộc đời giống như người mẹ của cậu thanh niên kia.

Điều quan trọng nhất là con của bạn phải biết cảm kích những lao khổ của người khác và phải từng trải qua những khó khăn của cuộc sống. 
Và nó phải học hỏi để có một khả năng biết làm việc chung với những người khác hầu đạt được thành quả cho những đề án nào đó.

(Nguon: tuanvietnam.net)


CHUYỆN VUI TRONG ĐỜI


 TRỜI Ở ĐÂU

- Trời ơi! Sao tui khổ quá nè trời. Đói muốn chết mà chưa có cơm ăn!!

- Ông trời ở xa lắm! Anh la lớn cách mấy ổng cũng không nghe đâu!
Còn em thì gần lắm. Chỉ cần anh gọi nhỏ nhẹ là có cơm cho anh ngay.

ĂN CHAY CÓ PHƯỚC!

-    Chị hai biết không em nghe quí Thầy dạy ăn chay có phước nhiều lắm.
     Nhưng khổ cho em là bà mẹ chồng và chồng em không ăn chay được.
     Mỗi ngày em nấu mặn không dám nếm thử, vì em ăn chay. 

    Cho nên ngày nào gia đình em cứ lên bàn ăn là gây lộn với chồng.

-   Như vậy là em ăn chay như vậy là vô phước rồi, có phước ở chỗ nào?!!

-  Ơ! Hay tại sao em ăn chay mà chị bảo là vô phước chứ!

-  Nhà em mỗi ngày đều gây lộn thì phước ở đâu nào…?!!


BBT LOTUS LANTERN
 Kính mời xem bài viết theo link:

*** CÚNG DƯỜNG TAM BẢO


HT THÍCH THANH TỪ


Có giác ngộ là không có mê tín, có mê tín thì không có giác ngộ. Nếu chứa chấp mê tín là chúng ta đã phản bội với đạo giác ngộ. Trong đạo giác ngộ quả thật không có mê tín.

I.- MỞ ÐỀ

Thấy người làm việc lành việc phải, mình tán thán bằng lời, hoặc góp một phần công, giúp một phần của để thành tựu công việc lành ấy. Quả là người này đã có lòng lành đáng quí đáng mến. Huống nữa, Tam Bảo là cây cầu đưa chúng sanh từ bến mê qua bờ giác, Tam Bảo là con thuyền cứu vớt chúng sanh đang chìm trong bể khổ đưa đến bờ Niết-bàn, Tam Bảo là ngọn đèn sáng soi đường cho chúng sanh khỏi lạc trong rừng tối vô minh. Người phát tâm tán trợ bồi bổ tô đắp cho Tam Bảo thường còn ở thế gian thì công đức biết bao kể xiết. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian, chúng ta phát tâm cúng dường, quả là việc làm tự lợi lợi tha đầy đủ.

II.- ÐỊNH NGHĨA


Cúng dường là nuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường. Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng. Phật đã quá khứ, chỉ còn lại hình tượng. Pháp bắt nguồn từ chữ Phạn đến chữ Hán còn nằm sẵn trong kho tàng nhà chùa. Tăng là những tu sĩ tu theo Phật học chánh pháp. Chính những vị này có bổn phận gìn giữ hình tượng Phật còn, phiên dịch giảng giải chánh pháp. Tam Bảo đều quí kính, song hệ trọng nhất là Tăng. Nếu không có Tăng ai gìn giữ chùa chiền, ai giảng dạy chánh pháp? Thế nên, cúng dường Tam Bảo là nói chung, mà hệ trọng là Tăng. Tăng chúng còn là Tam Bảo còn, Tăng chúng mất thì Tam Bảo cũng vắng bóng. Vì thế mọi sự cúng dường đều đặt nặng vào Tăng, với mục đích Tam Bảo tồn tại ở nhân gian.

III.- CÚNG DƯỜNG SAI LẠC

Thế mà có những người cúng dường một cách lệch lạc mất hết ý nghĩa cúng dường. Như có một Phật tử đi chùa đến thầy Trụ trì xin cúng năm đồng, liền đó được nghe hỏi "cầu cái gì", Phật tử ngơ ngác. Thầy Trụ trì hỏi thêm "cầu an hay cầu siêu", Phật tử bóp đầu suy nghĩ đáp "cầu siêu", rồi biên một dọc tên vào sổ cầu siêu. Phật tử này như thế, Phật tử khác cũng thế. Ðã thành thông lệ, cúng chùa là phải cầu siêu hay cầu an. Cầu an cầu siêu cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho thân thuộc mình, sự cúng ấy quả là vì mình. Vì mình mà đi chùa, vì mình mà cúng chùa đích thực là tham lam ích kỷ. Nếu mang một tâm niệm tham lam ích kỷ đến với đạo, chưa xứng đáng một Phật tử. Cái hư dở này tại ai? Chính tại người hướng dẫn đã chỉ lối sai lạc.

Ðến phần ông thầy, do Phật tử cầu siêu cầu an nên có tiền. Ðồng tiền này sau một thời kinh cầu nguyện xong, ông tự coi như trọn quyền sử dụng không có tánh cách e dè sợ sệt gì cả. Nếu một buổi lễ cầu nguyện được Phật tử cúng nhiều tiền, thế là ông mặc tình phung phí, vì tự cho do công tụng cúng của mình mà được. Thế thì đời tu hành cốt vì giác ngộ giải thoát, vô tình trở thành người tụng kinh mướn. Người tu cốt xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo, biến thành kẻ thụ hưởng. Trái với mục đích xuất gia, trở thành kẻ hư hèn, chính vì nhận đồng tiền phi pháp. Cầu nguyện là một điều phụ thuộc nhỏ nhít trong Phật pháp, vì nó không phải là chân lý. Thế mà, người ta thổi phồng nó lên, để rồi cả đời người tu gần như hết tám mươi phần trăm (80%) Phật sự đều nằm trong những lễ cầu nguyện. Truyền bá một điều không phải chân lý, ắt hẳn chánh pháp phải chịu suy đồi. Người có trách nhiệm hướng dẫn Phật tử mà một bề cổ xúy cho sự cầu cúng, là đưa họ vào rừng sâu mê tín, gây thêm lòng tham lam ích kỷ cho họ. Quả là kẻ tạo thêm tội lỗi, chớ không phải người tu hành.

IV.- CÚNG DƯỜNG ÐÚNG PHÁP

Người Phật tử chân chánh khi phát tâm cúng dường Tam Bảo, chỉ vì mong cho Tam Bảo thường còn ở thế gian để đưa chúng sanh ra khỏi đau khổ mê lầm. Nếu đến chùa, Phật tử cúng năm mười đồng, Tăng, Ni có hỏi cầu điều gì, Phật tử nên thưa: "Chúng tôi chỉ cầu mong chư Tăng, chư Ni nhận món tịnh tài này để có phương tiện an ổn tu hành, hầu truyền bá chánh pháp lợi ích chúng sanh." Chỉ vì Tam Bảo vì chúng sanh mà cúng dường, đây là tâm hồn cao thượng quảng đại vị tha. Làm việc bố thí cúng dường cao đẹp như vậy công đức làm sao giới hạn đuợc. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian để làm lợi ích cho chúng sanh, trong chúng sanh đã có bản thân mình và thân quyến mình rồi. Quên mình chỉ nghĩ đến toàn thể chúng sanh, không phải lòng lợi tha vô bờ bến là gì? Với một lòng vị tha rộng lớn như vậy, dù một số tiền nhỏ, một vật dụng mọn đem cúng dường cũng là phước đức vô biên. Cho nên nói "Phật dụng tâm".

Tăng, Ni nhận sự cúng dường chân chánh của Phật tử, tự nhiên thấy mình có một trọng trách lớn lao vô cùng. Làm sao tu hành tinh tiến? Làm sao truyền bá chánh pháp lợi ích chúng sanh? Ðể xứng đáng thọ nhận những thứ cúng dường của Phật tử, chỉ cần nỗ lực tu hành, cố gắng học tập để hiện tại và vị lai làm lợi ích chúng sanh. Nếu hiện đời, Tăng, Ni, không làm tròn hai việc này, có thể mai kia phải mang lông đội sừng để trả nợ tín thí. Biết như thế, hiểu như thế, Tăng, Ni làm sao dám lơi lỏng lơ là trong việc tu hành học tập. Thế là, nhờ sự cúng dường chân chánh của Phật tử thúc đẩy Tăng, Ni đã cốù gắng càng cố gắng hơn trong nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của chính mình. Thấy mình thiếu nợ, mới cố gắng lo đền trả bằng cách nỗ lực tu hành và độ sanh, đây là mục tiêu đức Phật bắt Tăng, Ni thọ nhận đồø cúng dường của Phật tử. Tăng, Ni là người có bổn phận hướng dẫn tín đồ cúng dường chân chánh đúng pháp thì, cả thầy trò đều cao thượng và lợi ích lớn. Chúng ta phải gan dạ đập tan những tập tục sai lầm, đừng vì quyền lợi, đừng vì cảm tình, khiến cho chánh pháp đi lần vào chỗ mờ tối suy tàn. Chúng ta là người lãnh đạo, không phải là kẻ theo đuôi tín đồ để cầu được nhi?u lợi dưỡng. Ðã dám bỏ nhà đi tu, tức là dám nhận chịu mọi sự đói rách nghèo nàn, mọi sự gian truân khó khổ, vô lý vì sự ăn mặc mà đi ngược lại sơ tâm siêu thoát của mình.

Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa chúng tôi hoàn toàn phủ nhận sự cầu nguyện. Chúng ta thấy rõ cầu nguyện chỉ là trợ duyên nhỏ xíu, kẻ đối tượng cầu nguyện chỉ được lợi ích một hai phần mười, như trong kinh nói. Chúng ta đã thừa nhận "nhân quả nghiệp báo" là chân lý thì sự cầu nguyện là ngoại lệ, có kết quả cũng tí xíu thôi. Cổ vũ cho điều phi chân lý, để cho người xao lãng chân lý, là việc làm trái với chánh pháp. Vì lòng hiếu thảo của Phật tử, buộc lòng chúng ta phải cầu nguyện, khi cầu nguyện chúng ta phải cảnh cáo rằng: "Việc làm này là phụ thuộc không đáng kể, kết quả ít lắm." Có thế mới khỏi lệch lạc trên con đường hoằng hóa lợi ích chúng sanh. Ðã thấy cầu nguyện là việc phụ, chúng ta đừng vì nó làm mất thì giờ tu học của Tăng, Ni, làm mất thì giờ truyền bá chánh pháp.

 
V.- LỢI ÍCH CÚNG DƯỜNG

Cúng dường Tam Bảo được lợi ích tùy tâm niệm người Phật tử. Nếu vì mình và thân thuộc mình mà cúng dường, phước đức cũng theo tâm lượng hẹp hòi ấy. Nếu vì Tam Bảo thường còn và lợi ích chúng sanh, phước đức sẽ theo tâm lượng rộng rãi thênh thang này. Người Phật tử chân thật thì, bao giờ hay bất cứ việc gì cũng vì lợi ích chúng sanh. Ðừng khi nào để lệch lạc mục tiêu tối thượng ấy. Chư Phật ra đời cũng vì chúng sanh, truyền bá chánh pháp cũng vì chúng sanh, chúng ta đền ơn chư Phật cũng vì cứu độ chúng sanh. Ðó là tâm niệm rộng lớn cao cả của người tu theo đạo Phật. Vì chúng sanh mà cúng dường Tam Bảo, quả thật người Phật tử sống đúng chánh pháp, hành đúng chánh pháp. Hành động đúng chánh pháp thì công đức lượng đồng với chánh pháp, nghĩa là kiếp kiếp đời đời không mất. Nếu dạy Phật tử làm phước tạo công đức, Tăng, Ni nên dạy đúng tinh thần này.

VI.- KẾT LUẬN

Chúng ta tu theo đạo Phật là đi trên con đường sáng, ánh sáng giác ngộ đến đâu thì bóng đêm mê lầm tan đến đấy. Mê tín là một bóng đêm, giác ngộ là ngọn đèn sáng. Bóng đêm và ánh sáng hai cái không thể có đồng thời. Nếu sáng thì không tối, hoặc tối thì không sáng. Có giác ngộ là không có mê tín, có mê tín thì không có giác ngộ. Nếu chứa chấp mê tín là chúng ta đã phản bội với đạo giác ngộ. Trong đạo giác ngộ quả thật không có mê tín. Học đạo và truyền đạo giác ngộ, chúng ta cương quyết dẹp hết bóng đêm mê tín. Có được như vậy mới gọi là người trung thực với chánh pháp. Bằng ấp ủ nuôi dưỡng chứa chấp mê tín, dù kẻ ấy mỗi ngày cúng Phật trăm lần vẫn là kẻ phá hoại chánh pháp. Thà là chúng ta cam chịu chết đói, quyết không vì lợi dưỡng mà làm những điều mê tín, dẫn dắt người đi trên đường mê tín. Ðã thừa nhận mình là Phật tử, quyết định không vì lòng tham để bị một số người lợi dụng dẫn đi con đường mê tín.

HT. Thích Thanh Từ

*** MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 1)


Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
            Mười điều tâm niệm trong "Luận Bảo Vương Tam Muội":

Điều 1 : Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc thần.
Điều 2 : Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì   kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát.
Điều 3 : Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc làm thú vị.
Điều 4 : Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma quân làm bạn đạo.
Điều 5 : Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú.
Điều 6 : Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
Điều 7 : Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người chống đối làm nơi giao du.
Điều 8 : Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ.
Điều 9 : Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
Điều 10 : Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
* * * * 
Trên thế gian này, cuộc sống đầy dẫy những sự bất trắc, bất như ý, con người phải bon chen quanh năm suốt tháng để sống còn, phải tranh đấu một cách vất vả để vươn lên, để vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời, những bước thăng trầm của thế sự. Con người thường mang tâm trạng hoang mang, âu lo, sợ hãi khi hướng về tương lai, không biết rồi đây ngày mai mình sẽ ra sao, cuộc đời của mình sẽ như thế nào, chuyện gì sẽ xảy ra cho mình và người thân của mình? Cho nên con người thường mong muốn mọi chuyện được bình yên, suông sẻ, may mắn, chuyện gì cũng đều tốt đẹp như ý. Lòng mong muốn cao độ đó thường dẫn tới sự cầu nguyện, van xin Trời Phật ban cho những điều mơ ước vượt tầm tay, tưởng chừng như ngoài khả năng của con người.
Chúng ta cần nên biết rằng: Đức Phật không phải là thần linh, không ban phước giáng hoạ cho bất kỳ một ai.  Cũng không có lý do nào Đức Phật ban phước lành cho riêng mình, mà không ban cho người khác.  Thực ra, đạo Phật giảng dạy nhiều phương pháp hành trì, gọi là "vô lượng pháp môn", để giúp con người tự lực, mạnh mẽ vượt lên trên mọi sóng gió phiền não, khổ đau của cuộc đời, bước ra khỏi vòng trầm luân sanh tử, tự tạo cuộc sống an lạc và hạnh phúc cho chính mình.  

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp".  Nghĩa là chúng ta hãy tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của chúng ta, bằng cách học hiểu những lời dạy của Đức Phật, và đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, để thấy được sự mầu nhiệm của Chánh Pháp, để tự cứu mình và giúp đỡ người khác. Trong kinh sách của Phật giáo, những lời dạy quý báu có thể giúp đỡ chúng ta vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời, vượt qua những bước thăng trầm của thế sự, được ghi chép khắp nơi, chẳng hạn như trong "Luận Bảo Vương Tam Muội", chúng ta có "Mười Điều Tâm Niệm" cần nên thường xuyên chiêm nghiệm, suy tư, nghĩ tưởng luôn luôn, để mỗi khi "bát phong" ập đến, nghĩa là sóng gió của cuộc đời dồn dập xảy ra, chúng ta có thể đối phó, ứng xử một cách dễ dàng hơn, không bị nhận chìm trong biển nước mắt của phiền não và khổ đau.
*
Điều 1: Điều thứ nhứt trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc thần".  Tại sao vậy?  Bởi vì khi nào con người còn mang tấm thân tứ đại, thì còn đau khổ vì bệnh tật.  Tấm thân tứ đại bao gồm các yếu tố đất, nước, gió, lửa, thường xuyên chống trái nhau, gây đau đớn, khổ sở cho con người. Người nào có phước nhiều thì ít bệnh.  Người nào ít phước, kém phước, bạc phước thì bệnh tật triền miên.  Cho đến khi hết duyên ở đời, con người phải ra đi, nhưng tấm thân tứ đại này thì để lại, tan rã và trở về với tứ đại trong trời đất.  Cát bụi lại trở về với cát bụi, thế thôi! Người nào tạo phước nhiều thì ra đi dễ dàng, nhẹ nhàng, êm thắm. Người nào tạo nghiệp nhiều thì ra đi khó khăn, hành hạ thân xác, khổ lụy người thân…
Con người không ai mong cầu bệnh khổ, cho dù cầu mong không bệnh khổ, nhưng bệnh khổ vẫn cứ đến. Nếu không có bệnh khổ, con người khỏe mạnh thường sinh dục vọng khó kềm chế. Thỏa mãn những dục vọng này, con người gây thêm biết bao nhiêu là ác nghiệp, để rồi phải đền trả, cho nên phải lăn lộn trong biết bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử, bao giờ mới có thể dứt, có thể thoát ra được?  Bởi vậy cho nên, Đức Phật dạy chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, nên coi bệnh khổ như là món thuốc thần, là tiên dược để điều trị những dục vọng trong tâm thức của chúng ta. Dục vọng càng nhiều chừng nào, con người càng phiền não và khổ đau chừng ấy. 

Đạo Phật là đạo cứu khổ nhân loại. Phật Pháp có công năng điều trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có muôn ngàn tâm bệnh thì Phật Pháp có tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị. Chẳng hạn như người hay tham lam, bỏn xẻn thì pháp đối trị là hạnh bố thí. Người nào hiểu được hạnh bố thí đem lại vô lượng vô biên phước báu và thực hành được hạnh bố thí hằng ngày thì tâm tham lam, bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều. Chẳng hạn như người hay nóng giận thì pháp đối trị là quán từ bi. Con người tăng trưởng tâm từ bi được thì những cơn nóng giận sẽ giảm đi rất nhiều. Cặp mắt của người có tâm từ bi, luôn luôn thương nhìn cuộc đời, cư xử nhẹ nhàng, dễ dãi với mọi người chung quanh, khó nổi cơn sân với những lỗi lầm, sai trái của người khác, không lợi dụng lòng từ bi của mọi người. 

Các bậc phụ huynh cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể giữ gìn được hạnh phúc trong gia đình. Các nhà giáo cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể thương yêu, dạy dỗ học sinh như con ruột của chính mình. Các nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể thương xót chúng sanh đang trầm luân đau khổ, phát nguyện tu hành tinh tấn để tự độ và độ tha, sẵn sàng hy sinh, phục vụ nhân loại. Chẳng hạn như người hay cố chấp, sống để dạ chết mang theo những lời người khác nói mích lòng thì pháp đối trị là tâm hỷ xả.  Người nào hiểu được rằng chứa chấp càng nhiều trong tâm thức của mình thì càng bị trầm luân trong sanh tử luân hồi, trong phiền não và khổ đau, chẳng ích lợi gì, bèn cố gắng phát triển tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh an, nhẹ nhàng, mắt sẽ nhìn cuộc đời một cách lạc quan hơn, cuộc sống sẽ an lạc hơn.
*
Điều 2: Điều thứ hai trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát".  Tại sao vậy?  Bởi vì van xin cầu khẩn thực sự có được gì đâu.  Con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên cuộc sống kiếp này mới gặp nhiều hoạn nạn, bất trắc, bất như ý. Muốn cuộc sống bớt hoạn nạn, vui nhiều hơn khổ, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, làm phước tạo phước kiếm phước nhiều hơn, đừng làm người khác đau khổ, dù bằng hành động, lời nói hay ngay cả trong ý nghĩ cũng vậy. Chúng ta nên nhớ rằng: chỉ có phước báo mới có thể che chở chúng ta qua những cơn hoạn nạn mà thôi.  Không có Trời Phật nào cứu chúng ta khi gặp hoạn nạn đâu. Cũng như chỉ có chiếc ghe mới có thể chở chúng ta qua sông mà không bị thấm nước vậy.
Con người không ai cầu mong hoạn nạn, cho dù mong cầu không hoạn nạn, nhưng hoạn nạn vẫn cứ tới, nguyên do là chúng ta phải đền trả những nghiệp báo đã tạo từ trước, không ai có thể tránh khỏi. Những người nào sống ở trên đời không gặp hoạn nạn, làm việc gì cũng thành công dễ dàng, người đó thường sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, tiêu xài xa xỉ, khinh thường thế nhân, nghi kỵ mọi người, khiến mọi người xa lánh, không ai muốn gần gũi, thân cận, vì chẳng ích lợi gì. Khi gặp hoạn nạn, con người thường không còn tâm kiêu căng, vì kiêu căng thì gặp nạn, không còn xa hoa phung phí, tâm không còn duyên theo cảnh trần, không còn dễ nổi lòng tham lam, không còn dễ sân hận, không còn si mê lầm lẫn, bởi vì tham thì gặp nạn, sân thì gặp nạn, ngu thì gặp nạn. Nghĩa là hoạn nạn giúp cho con người sớm giải thoát khỏi những trói buộc của tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, nghi kỵ, chính là nghĩa đó vậy.
Hơn nữa, trong cuộc sống phức tạp, nhiều khi gặp hoạn nạn này, có thể chúng ta tránh được hoạn nạn khác lớn hơn. Thí dụ như có người vì thua bạc nên mất vé tàu đi du lịch, cho nên thoát chết, vì chuyến tàu đó bị chìm đắm ngoài biển khơi. Nghĩa là có khi trong hoạn nạn, chúng ta có thể tìm được sự may mắn, hay bài học, hoặc kinh nghiệm nào đó vậy. Không có chuyện gì  hoàn toàn xui xẻo, không có chuyện gì hoàn toàn may mắn cả. Chẳng hạn như trúng số độc đắc có thể giúp chúng ta mua nhà, tậu xe, làm ăn buôn bán, cũng có thể gây bất hòa trong gia đạo, làm cho gia đình tan nát, hay trộm cướp viếng thăm, hoặc mừng quá… tắt thở luôn! Chẳng hạn như tù tội gian khổ, đối với bậc thánh nhân phi phàm, là cơ hội tốt nhứt để rèn luyện tâm tánh, để suy tư sáng tác những tác phẩm để đời. Biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền triết trên thế giới, xuất thân từ ngục tù. Đối với kẻ hèn yếu, hoạn nạn chính là địa ngục trần gian, nhận chìm họ trong biển khổ đau, phiền não!
*
Điều 3: Điều thứ ba trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc làm thú vị". Tại sao vậy?  Bởi vì tâm tánh của chúng ta, vì duyên theo cảnh trần, cho nên không cố định, thường xuyên thay đổi. Gặp cảnh thuận lòng vừa ý, tâm trạng của chúng ta vui tươi, hớn hở, hỷ hạ, hân hoan, hài lòng. Gặp cảnh trái tai gai mắt, tâm trạng của chúng ta nổi sóng gió ngay, nhẹ thì còn giữ được trong lòng, nặng thì phun ra miệng những cơn bực dọc, tức tối. Gặp đối phương biết nhẫn nhịn, thì mọi việc còn có thể êm xuôi, qua chuyện. Gặp phải người cứng cổ, cang cường, ngoan cố, thì câu chuyện không biết sẽ kết thúc như thế nào?  Có thể người đi nhà thương hay vào nhà xác, còn người khác đi nhà tù.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chơn tâm".  Nghĩa là tâm tánh của chúng ta luôn luôn xao xuyến, loạn động, bất an, được gọi là "vọng tâm", tức là tâm vọng động vì duyên theo cảnh trần. Lúc tâm trạng buồn thảm, thê lương, thì chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng có gì vui vẻ cả. Trái lại, khi trong lòng thấy vui, có niềm hoan hỷ, chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh dường như đang chia xẻ niềm vui hân hoan đó với chúng ta. Chính vọng tâm là căn bản của sanh tử luân hồi. Tại sao vậy?  Bởi vì vọng tâm lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc tốt lúc xấu, lúc nghĩ chuyện đông lúc nghĩ chuyện tây, lúc nghĩ chuyện hiện tại, lúc nghĩ chuyện quá khứ, vị lai, lúc vầy lúc khác, lúc có lúc không, lúc còn lúc mất, sanh diệt liên miên trong từng sát na, trong từng giây phút, ví như con ngựa chạy lung tung linh tinh lang tang khắp chốn, ví như con vượn chuyền từ cành cây này sang cành cây khác khắp nơi vậy.
"Vọng tâm" là động lực chính dẫn dắt chúng sanh tạo nghiệp trong vòng sanh tử luân hồi.  Muốn tâm được an, mỗi khi vọng tâm khởi lên, chúng ta nhận biết ngay, dừng lại lập tức, đừng theo đuổi nó, thì được giải thoát khỏi những hệ lụy ưu phiền sau đó, phiền não và khổ đau sẽ không đến. Khi sống ở đời, tiếp xúc với mọi cảnh, mọi sự, mọi việc, vẫn sinh hoạt như bao nhiêu người khác, nhưng tâm vẫn như như, an định, không xao xuyến, không loạn động, tức là chúng ta đang sống trong cảnh giới niết bàn, an lạc, tịch diệt, nói cách khác, lúc đó chúng ta sống với "chơn tâm" đó vậy. Chơn tâm ví như mặt biển yên lặng, phẳng lờ, rộng rãi, bao la bát ngát.  Vọng tâm ví như những ngọn sóng do gió thổi gây nên, gió nhẹ sóng nhỏ, gió mạnh sóng to.  Sách có câu:
“Tâm buồn cảnh được vui sao,
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”.
Tục ngữ cũng có câu: "Dò sông dò biển dễ dò. Đố ai lấy thước mà đo lòng người".  Nghĩa là tâm tánh của con người biến thiên không cùng, lòng dạ con người còn khó dò hơn sông hơn biển, cho nên khi cứu xét tâm tánh, chúng ta không thể nào tránh được những khúc mắc. Chúng ta đừng nản lòng vì những khúc mắc đó. Bởi vì chính những khúc mắc đó giúp chúng ta thêm nhiều thú vị, hăng hái hơn trên bước đường tu tâm dưỡng tánh, xả bỏ những tạp niệm, vọng tâm, loạn tưởng. Chúng ta luôn luôn thúc liễm thân tâm trong từng giây phút, đừng để vọng tâm dối gạt, nghĩ rằng mình tu đã khá lắm rồi, đã hiền thiện lắm rồi, đã đạt được điều này điều nọ. Có những lúc chúng ta làm những điều bất thiện, lợi mình hại người, kiện thưa người khác, đòi bồi thường bạc triệu, đó là lòng tham lam.  Chúng ta đem bố thí hay cúng chùa vài chục bạc, vọng tâm dối gạt mình: thế là xong, hết tội rồi!  Trong thiền tông, chư Tổ dạy chúng ta phải "sống trong tỉnh thức", hay "sống trong chánh niệm", chính là nghĩa đó vậy.
*
Điều 4: Điều thứ tư trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma quân làm bạn đạo". Tại sao vậy?  Bởi vì ma chướng ở đây có nghĩa là những lời khen tiếng chê, là danh thơm hay tiếng xấu. Nếu chúng ta có thể coi những người khen chê như những người giúp đỡ chúng ta trên bước đường tu tập, rèn luyện tâm tánh, thì chính họ là bạn đạo, là thiện hữu tri thức, là Bồ-tát nghịch hạnh, là giám khảo trên đường đạo của chúng ta vậy.  Bởi vì ma chướng ở đây cũng có nghĩa là những sóng gió của cuộc đời, những chuyện phiền não khổ đau, những chuyện thị phi phải quấy, những chuyện bất trắc bất như ý, những chuyện lăng xăng lộn xộn hằng ngày. Thông suốt được như vậy, chí nguyện của chúng ta mới kiên cường, không thoái chuyển, khi gặp lời khen hay tiếng chê, danh thơm hay tiếng xấu, khi gặp bát phong của cuộc đời, và tâm trí của chúng ta mới không bị dao động.
Chúng ta không ai mong cầu ma chướng, cho dù cầu mong không ma chướng, nhưng ma chướng vẫn cứ tới đều đều.  Trên đời này có thiếu gì những kẻ luôn luôn dòm ngó người khác, để vạch lá tìm sâu, để bới lông tìm vết, trong khi bản thân họ thì đủ thứ thói hư tật xấu. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Khi lên tiếng phê bình lỗi của người khác, thì lỗi của mình đã ở ngay bên chân rồi đó vậy". Tuy nhiên, dù ma chướng có tới thường xuyên cỡ nào, nếu biết tu tâm dưỡng tánh, chúng ta cũng có thể chấp nhận được, chịu đựng được, coi đó như là những thử thách cần thiết để nhắc nhở chúng ta rèn luyện tâm tánh, chuyển hóa cuộc sống từ phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc.  Sách có câu: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai", chính là nghĩa đó vậy.
*
Điều 5: Điều thứ năm trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú".  Tại sao vậy?  Bởi vì việc làm nào càng khó khăn, càng gian khổ bao nhiêu, mà chúng ta có thể vượt qua, đạt được thành công, thắng lợi, thì việc làm đó càng vinh quang, hiển hách bấy nhiêu.  Chẳng hạn như bài toán càng khó khăn bao nhiêu, khi giải được, tìm được kết quả, càng thích thú bấy nhiêu.  Việc làm nào dễ thành chỉ là những việc làm tầm thường, không có giá trị cao, hoặc người thực hiện có thừa khả năng, cho nên dễ sanh ra khinh thường mọi việc, kiêu ngạo, coi trời bằng nắp vung.
Ở trên thế gian có nhiều việc rất khó khăn, ít người thành đạt, chẳng hạn như thi đậu bằng cấp này, bằng cấp kia, tìm ra món thuốc điều trị mới, phát minh ra máy móc hiện đại, tối tân, sáng chế ra cách thức làm việc khoa học hơn, đem lại năng suất cao hơn. Các bậc anh hùng cứu quốc, có thể đem lại độc lập, tự do, no ấm cho một dân tộc, không phải ai ai cũng có thể làm được một cách dễ dàng.  Trên phương diện xuất thế gian, việc tu tâm dưỡng tánh cũng vậy, nếu ai ai tu tập sơ sài, cũng có thể thành Phật được, thì quả vị Phật đâu còn giá trị bao nhiêu.  Một vị Phật ra đời đem lại phước báu, ích lợi cho biết bao nhiêu chúng sanh, trong biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, không thể nghĩ bàn. 
 

 Điều 6: Điều thứ sáu trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ".  Tại sao vậy?  Bởi vì những mối lợi, dù nhỏ dù lớn, trên thế gian, cũng đều là những mục tiêu tranh giành, chiếm đoạt của bao nhiêu người. Người đời thường không ngại dùng đủ mọi thủ đoạn, để tranh danh đoạt lợi, cho nên bất chấp đạo nghĩa, luân lý, tình thương, quan hệ.  Con người sẵn sàng thượng đội hạ đạp, chà đạp mọi người chung quanh, chỉ vì chút danh lợi nhỏ nhoi.  Danh lợi ở đời ví như những miếng mồi câu cá.  Cá nhỏ tới ăn miếng mồi liền bị cá lớn đớp gọn. Cá lớn đớp cá nhỏ xong, thì bị lưới lên ghe ngay tức thì…
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Khi tới ngã ba đường, nếu thấy cái cây đầy trái chín mọng, không ai hái ăn, thì nên hiểu rằng đó là trái độc".  Nghĩa là ở đời không có mối lợi lớn nhỏ nào dành sẵn cho mình hưởng, hay người khác đem dâng tặng mình, mà không có cái bẫy rập độc hại bên trong, bên dưới, hay phía sau, chờ đợi người tham lam, mê muội, thiếu suy nghĩ. Người đời thường thả con tép để bắt con tôm. Người nào tham lợi lớn, ham lời nhiều, thường hay bị lợi dụng, bị sập bẫy một cách dễ dàng, ví như cá thường hay cắn câu vậy. Cũng như những người không cố gắng tu tâm dưỡng tánh, không chịu học hiểu Chánh Pháp, không làm lợi ích gì cho chúng sanh, cho đạo pháp, chỉ tham danh lợi, thích sự sung sướng, thì quả báo, nghiệp báo tới liền sau đó.
Trong phạm vi gia đình, nếu vợ chồng con cái giao tiếp với nhau hằng ngày mà không biết thương yêu nhau, không biết nghĩ đến nhau, không biết hy sinh cho nhau, người nào cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mình, chỉ nghĩ đến sự sung sướng bản thân, thì còn gì là đạo nghĩa vợ chồng, còn gì là tình cha con, còn gì là mẫu tử tình thâm, còn gì gọi là hạnh phúc gia đình?
Trong phạm vi xã hội, trong lúc giao thiệp tiếp xúc hằng ngày, người nào chỉ nghĩ đến, chỉ mong cầu lợi mình, bất chấp hại người, người đó làm sao sống hòa thuận, yên ổn, vui vẻ với những người chung quanh?  Người quá ích kỷ như vậy làm sao kết bạn được với ai, làm sao sống cuộc đời hạnh phúc?  Hạnh phúc thực sự chỉ có với những người biết hai chữ "hy sinh" mà thôi. Trong cuộc đời, những kẻ ích kỷ, tệ bạc, chỉ biết lợi mình, bất chấp hại người, chẳng kể nhân tình, chẳng màng đạo nghĩa, nhiều không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Nhưng chính những người như vậy lại là kẻ giúp đỡ người biết tu tâm dưỡng tánh, để rèn luyện tâm tánh của mình. Có gặp những kẻ tệ bạc như vậy mà tâm trí của chúng ta vẫn như như, bất động, bình tĩnh, thản nhiên, mới biết được công phu tu tập của mình đến đâu. Nếu tất cả mọi người đều tốt, đều hiền thiện, đều biết đạo nghĩa, thì chúng ta đâu biết tâm mình ra sao? Bởi vậy cho nên, người nào thực sự muốn phát tâm tu học, thì ngay cuộc đời này, ngay cõi ta-bà ngũ trược ác thế này, chính là trường tu tốt nhứt vậy, không cần phải đợi vãng sanh Tây phương cực lạc mới chịu bắt đầu tu. Tại sao vậy?  Bởi vì cõi Tây phương cực lạc, như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh A Di Đà, là nơi chỉ toàn bậc Thánh nhơn, chư thượng thiện nhơn câu hội, đâu cần phải tu làm gì nữa, đâu có chỗ chứa hạng phàm phu không chịu tu.
*
Điều 7: Điều thứ bảy trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người chống đối làm nơi giao du".  Tại sao vậy?  Bởi vì sách có câu "năm người mười ý", đâu ai có ý kiến giống ai, mỗi người thường có ít nhứt hai ý kiến trong cùng một vấn đề, nay vầy mai khác, thì làm sao bắt buộc người khác phải thuận theo ý mình? Tại sao mình lại không thuận theo ý người khác? Con người vì sự cố chấp, chấp chặt như vậy cho nên phiền não và khổ đau dài dài!
Trong gia đình, nếu người chồng hay người vợ cố chấp, bảo thủ ý kiến của riêng mình, thì làm sao gia đình đó có hạnh phúc được? Cái gì của mình cũng đúng, cũng hay, cũng nhứt cả, thì làm sao chịu nghe ý kiến của người khác? Cha mẹ và con cái thuộc hai thế hệ khác nhau, thì tức nhiên ý kiến, suy nghĩ, hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt, tất cả đều khác nhau, không thể khai trừ nhau, cho nên phải tùy thuận nhau mà sống, mới có được hạnh phúc trong gia đình. Trong thập đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, điều thứ chín dạy: "Hằng thuận chúng sanh", chính là nghĩa đó vậy.  Tuy nhiên, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là một người trong gia đình có lòng tham lam, xúi giục cả gia đình tham lam theo, bất chấp thủ đoạn, lợi mình hại người.
Trong phạm vi xuất thế gian, người tu theo pháp môn này chê bai pháp môn khác cũng đều không đúng. Tại sao vậy?  Bởi vì đạo Phật có nhiều pháp môn tương ứng, thích hợp, tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích của mỗi người, để mọi người đều có thể tu tập được. Chúng ta không nên nghĩ mọi người phải tu như mình, hành như mình, mới là đúng. Ý nghĩ như vậy, tư tưởng như vậy chỉ làm cho chúng ta càng ngày càng trở nên kiêu căng, phách lối, ngạo mạn, chê người, khinh đời. Trái lại, chúng ta nên giao du với những người chống đối, trái ý, để luôn luôn suy xét, hoàn chỉnh ý kiến của mình, chuyển hóa tâm tánh của mình, để học hỏi thêm cái hay cái tốt của họ. Nhờ có những người nghịch ý, chống đối như vậy chúng ta bớt lòng kiêu căng. Ví như chiếc xe có máy móc để chạy, cũng cần có cái thắng mới hữu dụng vậy.  Nếu không có cái thắng, chắc chắn có ngày cũng lọt xuống hố mà thôi.
*
Điều 8: Điều thứ tám trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ".  Tại sao vậy?  Bởi vì chúng ta thi ân, làm ơn vì lòng tốt, chứ không phải vì muốn được cám ơn, nhớ ơn hay đền ơn.  Làm ơn mà muốn được cám ơn, muốn được nhớ ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì danh tiếng mới chịu làm. Làm ơn mà muốn được đền ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì lợi lộc mới chịu làm. Làm ơn như vậy chẳng có phước báu gì, chẳng được người khác mang ơn, mà còn chuốc lấy oán hờn, thù ghét, chuốc lấy ưu phiền, bực tức, khi gặp mặt kẻ vô ơn, bạc nghĩa. Làm ơn như vậy rõ ràng là có mưu đồ, làm ơn thì ít, mà muốn được đền ơn gấp bội phần. Chẳng hạn như khi đến phúng điếu, giúp đỡ tang quyến người khác chẳng bao nhiêu, lại muốn được "trả công bội hậu" ở nước thiên đàng, thì quả là tham lam quá xá.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Thi ân, bố thí bất trụ tướng, phước đức bất khả tư lượng".  Nghĩa là chúng ta làm ơn bố thí, nhưng không chấp mình là người ban ơn làm phước, không thấy có người thọ nhận việc phước mình làm, không nhớ mình làm phước giúp đỡ điều gì, không tính mình giúp đỡ bao nhiêu người. Được như vậy, chúng ta sẽ ăn ngon ngủ yên, tâm trí không bất an vì những chuyện phước đã làm, vì gặp những người vô ơn, không tiếc nuối những vật đã đem cho, không ân hận đã giúp đỡ lầm người.  Làm ơn có nghĩa là làm phước, tạo phước bòn phước, cứu đời giúp người, khi cần thiết, lúc hoạn nạn, chỉ vì lòng tốt, vì tâm lượng từ bi, vì muốn chuyển hóa tâm tánh của chính mình, thì như vậy mới có thể làm ơn được lâu dài, giúp được nhiều người, nhiều lần và phước báu vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.  Sách có câu: "Thi ân bất cầu báo đáp", chính là nghĩa đó vậy.  Hàng phục được tâm ý, chuyển hóa được tánh tình như vậy, chúng ta mới có thể phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có chúng sanh nào được độ.  Cho nên Đức Phật dạy hãy coi thi ân như đôi dép bỏ, làm ơn làm phước xong rồi thì quên ngay đi, bỏ qua liền, đừng ghi nhớ trong tâm thức cho thêm phần nặng nề.  Được như vậy, chúng ta mau tiến đến chỗ giác ngộ và giải thoát.
*
Điều 9: Điều thứ chín trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa". Tại sao vậy?  Bởi vì lợi lộc trên đời thường do tranh đấu, giành giựt, bon chen, bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp nhơn nghĩa, bất chấp đạo lý, mới có được. Lợi lộc không từ trên trời rơi xuống, không ở dưới đất trồi lên. Khi thấy có lợi lộc, cả khối người nhào vô, sẵn sàng chà đạp, gạt gẫm, loại trừ, giết hại lẫn nhau để chiếm đoạt cho bằng được.
Nhiều khi lợi lộc quá lớn lao, có thể khiến cho con người đánh mất lương tri, sẵn sàng thanh toán người thân lẫn kẻ thù, chỉ nhằm đoạt được mục tiêu mà thôi. Chẳng hạn như một thái tử âm mưu sát hại phụ hoàng để chiếm ngai vàng, con cái giết hại cha mẹ để đoạt gia tài, bạn bè cáo gian để hại nhau, chiếm đoạt tài sản, vợ con người khác. Con người vì ham lợi lộc cho nên chuyện gì cũng dám làm, coi lợi lộc như vinh hoa phú quí cần phải có trên thế gian, để ngẩng mặt nhìn đời cho có oai phong ngon lành. Chính vì thế tâm si mê phải động, sai khiến con người làm tất cả mọi chuyện để thỏa mãn lòng tham lam của mình. Con người khi thấy lợi lộc liền nhúng tay vào, mà chẳng cần biết hậu quả ra sao?  Đó chính là tâm si mê vậy.
Các sòng bạc được mở ra khắp nơi, chính là những cái bẩy khổng lồ nuốt tiền của những người nhẹ dạ ham vui tham tiền, hình như ai ai cũng biết vậy, nhưng có rất nhiều người nuôi tham vọng là mối lợi to lớn ở các sòng bạc đó, biết đâu may mắn đến với mình, cho nên mạnh mẽ nhào vô … lãnh đủ. Có nhiều người tán gia bại sản, nợ nần tứ tung, nhưng vẫn không chừa, vẫn không không biết sợ. Tục ngữ có câu: "Cờ bạc là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết nợ nần tứ tung". Có cửa nhà để bán trả nợ là còn có phước đó. Người nào muốn tu tâm dưỡng tánh thì phải xả bỏ tâm tham lợi, tâm si mê, phải biết sống cuộc đời thiểu dục tri túc, ít muốn và biết thế nào là đủ, tâm mới được khinh an, thơi thới, nhẹ nhàng, cuộc sống mới được an lạc, cuộc đời mới được hạnh phúc.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:     
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý.
Nghĩa là người biết thế nào là đủ, không tham lợi lộc, thấy lợi lộc không nhúng tay vào, tuy nằm trên đất nhưng vẫn thấy an lạc hạnh phúc, bình yên vui vẻ.  Chỉ cần "biết" đủ, thì đã quá đủ rồi. Trái lại, người nào không "biết", thì không bao giờ thấy đủ, tấm thân tuy được ở trên thiên đường, tiền rừng bạc biển, giàu sang sung sướng, nhưng tâm ý vẫn chưa thỏa mãn, cố gắng kiếm cho thiệt là nhiều tiền vẫn chưa chịu thôi, chưa chịu ngưng, chưa chịu an hưởng tuổi già gần đất xa trời.  Sách cũng có câu:
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Nghĩa là "biết" thế nào là đủ, tức thời được đầy đủ ngay lập tức, không cần phải đợi đến lúc có thiệt nhiều tiền mới thấy đủ. Bao nhiêu mới gọi là nhiều đối với người không biết đủ? "Biết" thế nào là nhàn, tức thời được nhàn nhã ngay lập tức, không cần phải đợi đến già, hay lúc nào hết. Nói tóm gọn là "biết" đủ thì đủ, "biết" nhàn thì nhàn.  Không "biết" thì cực khổ tấm thân vậy thôi.
*
Điều 10: Điều thứ mười trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh". Tại sao vậy?  Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên khi gặp chuyện oan ức, không cần phải than trời trách đất gì cả. Muốn cuộc sống bớt những điều oan ức trái ngang, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.
Người nào nói xấu mình, mình bèn tìm đủ cách nói xấu lại, cho bỏ ghét.  Người nào hại mình, mình bèn tìm đủ cách hại lại nặng hơn, cho đáng đời.  Người nào không chịu giúp mình, không tốt với mình, mình bèn tìm đủ mọi cách trả thù, cho hả giận, rỉ tai biêu riếu, vu khống cáo gian, vu oan giá họa, kiện cáo tụng đình, cho chúng chết luôn, cho chúng mạt luôn, khỏi ngóc lên nổi. Mình cho rằng người ta xấu xa, người ta ác độc, người ta bất chính, người ta bất lương, người ta bất thiện, người ta bất nhơn, người ta ác đức, người ta dã man, mà mình cũng làm y như vậy, chỉ khoác danh nghĩa "trả thù", thì mình có khác gì người ta đâu? Phản ứng y chang những điều người đời làm cho mình thực là dễ dàng. Còn như nhịn được mới thực là khó khăn vô cùng. Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không còn chấp mình nhận chịu khổ đau, không còn chấp người tạo đau khổ cho mình, tức là chúng ta đã thấu rõ và hành được "giáo lý vô ngã" của đạo Phật.  Trong giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là "Ta", nên không có gì là "của Ta". Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu cho thấu đáo, để khi gặp chuyện oan ức trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình tĩnh, thản nhiên. Được như vậy, oan ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh.
Người nào có nhiều "tự ái", thường cho rằng ta đây là nhứt, cái gì của mình cũng đứng nhứt, cái gì liên quan đến mình cũng nhứt, chấp nhứt từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ nhặt, chẳng bao giờ chịu nghe lời khuyên, thường thấy lỗi lầm của người khác, không bao giờ cho là mình có lỗi gì cả, bất cứ chuyện gì xảy ra cũng tìm đủ mọi cách, viện đủ lý lẽ, đổ lỗi người này, đổ thừa người kia, tại thế này, bị thế khác, chứ không bao giờ tại mình, bởi mình, do mình mà chuyện sai trái xảy ra cả! Người như vậy chính là người có "tâm chấp ngã" quá cao.  Cho nên người đó vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi.  Tại sao vậy?  Bởi vì những người như vậy rất nhạy cảm, phản ứng nhanh lẹ, khi tiếp xúc với cảnh trần đời. Một lời nói vô tình, một ý kiến trái nghịch, một việc làm không vừa ý, một cử chỉ vụng về của người khác, tất cả đều có thể khiến cho những người như vậy nổi sân, bực tức, khó chịu, gây gổ, phê phán, bình phẩm, chỉ trích, miệt thị, hơn thua, sống để dạ, chết mang theo. Nghĩa là vọng tâm của họ khởi lên đều đều mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây. Những người như vậy thường xuyên sống trong tâm trạng bất an, vọng động, thậm chí đau khổ nhiều thứ, nhiều mặt bởi vì kho tàng tâm thức chứa nhóm quá nhiều phiền não.
* * *
Tóm lại, chúng ta nên biết rằng ngoài biển khơi lúc nào cũng có gió thổi, tùy theo gió nhẹ thì sóng nhỏ, gió to thì sóng cả.  Tâm của chúng ta ví như mặt biển cả, tùy theo "bát phong" của thế gian thổi đến, chẳng hạn như lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc danh dự, lúc tủi nhục, lúc sung sướng lúc đau khổ, đối với người không biết tu tâm dưỡng tánh thường để cho lòng nổi sóng, chìm đắm trong vui mừng tột độ, hay đau khổ triền miên.  Còn đối với người quyết tâm tu tập thì cố gắng giữ gìn tâm ý bất động, bất loạn, như như, bình tĩnh, thản nhiên trước mọi phong ba của cuộc đời.  Được như vậy, chắc chắn đời sống an lạc, hạnh phúc, tâm linh giác ngộ, giải thoát.  Đó là cảnh giới niết bàn, tịch diệt, chính là mục đích cứu kính của đạo Phật.
Chư Tổ có dạy:
"Nếu chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt,
mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại".
Chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, đừng cầu không hoạn nạn, đừng cầu không khúc mắc, đừng cầu không bị ma chướng, đừng cầu lợi cho mình, đừng cầu tất cả đều thuận theo ý mình, đừng cầu được báo đáp, đừng cầu không bị oan ức.  Tại sao vậy?  Bởi vì cầu nguyện thực sự có được gì đâu, chỉ làm cho tâm trí chúng ta thêm rối loạn khi gặp nghịch cảnh, bất trắc mà thôi.  Chúng ta hãy cùng suy gẫm câu chuyện sau đây: Có một bà lão đến gặp Thiền sư Triệu Châu thưa hỏi, cầu nguyện cách nào có thể giúp bà, kiếp này chuyển được phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc, kiếp sau được lên thiên đàng, không đọa địa ngục?  Thiền sư Triệu Châu dạy bà khấn nguyện như thế này: Tôi nguyện đời đời kiếp kiếp chấp nhận sống trong đau khổ, chấp nhận địa ngục, còn an lạc hạnh phúc và cõi thiên đàng xin dành cho người khác
Ngày nay, người tu học theo đạo Phật nên dấn thân trong mọi sự trở ngại, không quản khó khăn, không sợ trắc trở. Cho nên trở ngại, khó khăn, trắc trở không thể cản được bước đường tiến tu, không làm cho chúng ta chán nản, sờn lòng, muốn xa lánh cõi đời, mong cầu về cõi cực lạc sung sướng cho dễ tu hơn.  Chánh Pháp chí thượng nhờ vậy mới được sáng tỏ. Chúng ta cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, mở mang trí tuệ bát nhã, "chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách". Nghĩa là khi thấy được, hiểu được, "biết" được một cách rõ ràng tấm thân tứ đại, ngũ uẩn này là không thực, là giả tạm, nay còn mai mất, muốn duy trì, giữ gìn mãi mãi cũng không được, muốn trẻ mãi không già cũng chẳng được, muốn khỏe mãi không đau cũng chẳng được, "biết" được như vậy, hiểu được như vậy, thấy được như vậy, thì khổ ách nào mà chẳng qua.  Nếu chúng ta thực sự thấy được tất cả các pháp trên thế gian này đều không thực, không tự tánh, không cố định, không tồn tại vĩnh viễn, thì khi đó chúng ta đủ khả năng vượt qua mọi sóng gió của cuộc đời, vượt qua tất cả mọi khổ ách, đáo bỉ ngạn, đến được bờ giác ngộ và giải thoát vậy.
THỈNH BỘ SÁCH "CƯ TRẦN LẠC ĐẠO"  TẬP 1,2,3, LIÊN LẠC VỚI TÁC GIẢ:


Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật

Kính thư,



*** LÒNG BAO DUNG CỦA MỘT BÀ MẸ



Trong lúc các báo đua nhau khai thác mọi ngóc ngách của vụ án Hoàng Hùng,
người bị sát hại bởi chính bàn tay của vợ mình thì ở một góc riêng nào đó, 
bà cụ già 74 tuổi vẫn vẫn mở lòng bao dung...
Theo dõi vụ án, từ nhiều ngày nay qua các phương tiện thông tin, 
chưa ai ghi nhận được một lời nói nào, một cử chỉ
nào từ phía gia đình anh Hoàng Hùng nhằm lên án hay thóa mạ thủ phạm

gây ra cái chết đau thương này.

Mọi việc về pháp lý đã có cơ quan chức năng lo liệu. 

Vấn đề ở đây là tấm lòng của những người trong cuộc.

Cụ bà Nguyễn Thị Kim Nga  (ảnh Huỳnh Hải – báo Dân Trí)


Anh Hoàng Hùng là con đầu trong số 6 người con của cụ Nguyễn Thị Kim Nga.

C
ụ Nga hàng ngày thui thủi một mình tại căn nhà lá trống trước hở sau ở ấp 4,
xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa.
Mặc dù đông con nhưng vì sinh kế, họ đều ra riêng (ở riêng), 
thỉnh thoảng mới ghé về thăm cụ.  Điều đáng ghi nhận ở đây là tất cả các anh em của Hùng 
đều đùm bọc nhau, đều thương mẹ
nhưng vì cuộc sống đều phải cắn răng chịu đựng không một ai muốn gây ra điều tiếng

gì để khiến mẹ phải buồn phiền.

Tin anh Hùng mất đến với cụ Nga như sét đánh ngang tai. 

Suốt một tháng trời ròng rã, dư luận báo chí, dư luận
của người chung quanh đều hướng về thủ phạm là người thân trong gia đình. 

Cụ Nga không muốn tin điều đó.

Nhưng khi đứa cháu nội báo tin, "bác hai tự thú rồi" thì trước mặt cụ đất trời như sụp đổ.

Bây giờ đối mặt với sự thật, cụ không thể phủ nhận điều con dâu là thủ phạm giết con trai cụ.
Đôi mắt cụ thẫn thờ lạc điệu.

Những sợi tóc trắng phau phất phơ như sương khói, trên gương mặt cụ hiển hiện

một tấm lòng độ lượng.
Cụ bày tỏ rằng mình không hề oán giận hay căm thù một đứa con dâu con rể nào cả,
cho dù chúng gây ra thảm kịch.
Cái đáng tiếc ở đây cụ muốn nhấn mạnh là con dâu của cụ (bà Thúy Liễu), 

tuổi đã qua nửa đời người nhưng vẫn còn nông nổi dại dột gây ra cảnh tan đàn xẻ nghé.
Cụ thương hai đứa cháu nội vừa mất cha nay phải xa mẹ sẽ sống ra sao trước búa rìu dư luận
ngày một nhiều ?

Có lẽ, người đau khổ nhất trong vụ án này là ông Trần Văn Mến. Ông Mến là cha bà Thúy Liễu,

 nhạc phụ của anh Hùng.

Vừa mang nỗi đau mất rể, vừa mang mặc cảm là cha của thủ phạm, ông Mến đã quì lạy cụ Nga:

“Tôi làm cha mà không dạy được con để gây ra bi kịch này. Xin chị tha thứ...”.

Đỡ ông Mến dậy, cụ rót đầy chung trà:

“Xin dùng trà thay rượu, uống cạn chung này mình vẫn là sui gia với nhau.   
Hãy dồn sức lo cho cháu ngoại anh và cháu nội tôi anh nhé”.

Không phải ông Mến bất ngờ mà cả những ai có mặt tại đây trong giây phút này cũng

hết sức ngỡ ngàng trước lòng vị tha bao la của cụ Nga...

Các cụ tự động viên nhau rằng, mất mát đã mất mát rồi. 

Đau thương cũng đã đau thương rồi.
Oán giận, thù hằn để làm gì khi trước mắt còn nhiều vấn đề phải làm...

Người chết đã nằm xuống. Người gây nên tôi đã vướng vào vòng lao lý.

Cái lo của cụ Nga quả là cái lo rất đáng để mọi người quan tâm.

Hai đứa trẻ tuổi đời còn quá nhỏ
cùng một lúc nhận được những hung tin dồn dập.

Có thể chúng chưa đủ sức để thấu hiểu, nhưng ngày một lớn lên,

những hệ lụy của cuộc đời sẽ gặm nhấm tâm hồn chúng.
Trước mắt, đứa lớn đã bỏ học trước khi bà Liễu ra đầu thú vì những câu hỏi của người lớn,
 của bạn đồng song:
“má đốt ba?”.

"Hãy dồn sức lo cho cháu ngoại anh và cháu nội tôi" 
Cần phải nghĩ đến tương lai của hai đứa trẻ nhất là trong lúc này.
Những người như cụ Nga, ông Mến,
các cô dì chú bác của hai cháu

 sẽ phải làm gì để đưa hai cháu vượt qua ?
 Đó là vấn đề đáng nói hơn là giữ trong lòng sự thù hận oán ghét.  
 "Cháu nội tôi và cháu ngoại anh",
câu nói của cụ Nga hàm chứa nhiều tình yêu thương và trách nhiệm...

Riêng với bà Thúy Liễu, thời gian vừa qua, lương tâm đã day dứt bà nhiều rồi.

 Tiếp sau, những ngày tháng trong trại giam bà sẽ còn đối mặt với sự dày vò cắn xé.
Bà đã không chiến thắng được mình, sa ngã vào những việc làm không chính đáng để rồi

cái giá phải trả quá đắt.

Nếu có dịp trở lại với đời sống bình thường liệu bà sẽ trả lời sao với các con?

Bà sẽ làm gì trước thái độ rộng mở của các đấng sinh thành và những người thân yêu?

Cụ Nga quả là người phụ nữ đầy tính nhân văn và lòng bao dung.

Không giận, không thù, không ghét,
có lẽ cũng phù hợp với ý nguyện của anh Hùng,

không hề hé môi cho bất cứ ai biết thủ phạm khi vẫn còn trên giường bệnh? 
Trần Chánh Nghĩa; vietnamnet.vn


MẸ TRONG LÒNG CON

Tác giả: Liên Hương




MẸ LÀ PHẬT


Mẹ là Phật của đời con
Mà con cứ ngỡ Phật còn đâu xa
Đời Mẹ vất vả buôn ba
Thức khuya, dậy sớm thân già vì con
Chín tháng thai ngén gầy còm
Cơm ăn chẳng đặng, héo mòn xanh xao
Đến ngày sinh nở đớn đau
Thân thể mỏi mệt máu đào chứa chan
Được nghe con trẻ khóc ran
Lòng Mẹ hạnh phúc quên ngàn nỗi đau
Nuôi con Mẹ chẳng than sầu
Dù là đói rách không câu trách hờn
Thương con nào tính thiệt hơn
Mẹ ăn quả đắng, quả thơm con dùng
Mẹ  nằm chỗ ướt quanh năm
Phần con chỗ ráo nghe lòng vẫn vui
Thâu đêm Mẹ chẳng nghỉ ngơi
Làm cơn gió mát cho đời con thơ
Trời lạnh Mẹ hát ầu ơ
Ôm con cho ấm, mắt mờ  vì con
Mẹ con sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê
Miếng ngon, miếng ngọt đem về
Mẹ con ăn khổ chẳng hề thở than
Chở che con được bình an
Nâng niu hơn ngọc hơn ngàn báu châu
Dù con Mẹ xấu đến đâu
Mù, câm, đếc, ngọng, vẫn cầu cho con
Bình an, mạnh khoẻ, mãi còn
Lòng Mẹ mãi mãi thương con trọn đời
 
**

Tuổi xuân Mẹ đã qua rồi
Vì con mà Mẹ hao rồi sắc hương
Áo quần xộc xệch nát tươm
Tóc tai búi lọn chẳng buồn thả ra
Má hồng Mẹ chẳng thiết tha
Đồ dơ con trẻ giặt mà chẳng than
Lớn lên xa xứ đi làm
Mẹ luôn thương nhớ, khóc than một mình
Sợ con trên bước đăng trình
Không người lo lắng thật tình cho con
Nghĩ mà lòng Mẹ héo hon
Mắt mờ chân chậm chờ con từng ngày
Vì con mà Mẹ chẳng nài
Thân cò lặn lội suốt ngày bôn ba
Bữa ăn vẫn khó kiếm ra
Cho con no dạ việc mà khó sao
Việc ác Mẹ lại đem vào
Nướng, kho sinh vật, nấu, xào con ăn
Tội thì Mẹ gánh vào thân
Vẫn cam nhận lấy để phần con vui
Cho con suốt cả cuộc đời
Nuôi con ăn học nên người nên thân
Lòng Mẹ như biển thái bình
Ân nặng như núi nghĩa tình mênh mông
Với tay hái nụ hoa hồng
Cài lên ngực áo mà dòng lệ rơi
Con trẻ hạnh phúc Mẹ ơi
Vu Lan có Mẹ, rạng ngời lòng con
Vần thơ tặng Mẹ mãi còn
Như lòng con trẻ sắt son ơn Người
Mùa vu Lan đã đến rồi
Nguyện cầu cho Mẹ sống đời bình an.