Friday, March 3, 2017

***TÁM ĐIỀU PHẬT TỬ CẦN BIẾT



TÁM ĐIỀU PHẬT TỬ CẦN BIẾT



TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ 
1. Điều thứ nhất: Người trí biết rõ cuộc đời là vô thường, quốc độ vốn không lâu bền, bốn đại vốn không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt đổi thay, hư giả không có chủ tể. Tâm là mầm sinh các điều ác. Thân thể là nơi tích tụ tội lỗi. Quán chiếu như vậy, dần dần thoát ly sanh tử.

2. Điều thứ hai: Người trí biết rõ ham muốn nhiều là khổ, sống chết khổ nhọc, ham muốn bắt đầu từ lòng tham, ít ham muốn sống không tạo nghiệp, thân tâm được tự tại.

3. Điều thứ ba: Người trí biết rõ tâm không hề thấy đủ, chỉ biết cầu mong có được càng nhiều, cho nên tăng thêm tội ác. Bồ-tát không như vậy, thường nhớ biết đủ, sống đời thanh đạm để tu tập đạo hạnh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp.

4. Điều thứ tư: Người trí biết rõ biếng nhác là đọa lạc, nên thường tinh tấn, dẹp bỏ những phiền não xấu ác, hàng phục bốn ma, vượt ra ngoài sự trói buộc của thân tâm.

5. Điều thứ Năm: Người trí biết rõ ngu si là gốc của sanh tử. Bồ tát thường nhớ kỹ điều đó, nên cố gắng học rộng hiểu sâu, để mở mang, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu được pháp biện tài, giáo hóa hết thảy đều đạt niềm vui lớn.

6. Điều thứ sáu: Người trí biết rõ nghèo khổ thường có nhiều oán than, dễ tạo thêm nhiều duyên xấu. Bồ-tát thường làm việc bố thí, tâm luôn bình đẳng, không phân biệt thân hay thù, không nhớ thù xưa, không ghét kẻ xấu.

7. Điều thứ bảy: Người trí biết rõ năm thứ dục lạc (tiền tài, sắc tướng, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ) là năm món tội và năm mối họa. Cho nên, tuy là người thế tục, nhưng người trí sống không nhiễm những lạc thú của thế gian, thường nhớ nghĩ và nương tựa ba  điều cao quí (Phật là tâm sáng suốt, Pháp là tâm chân chánh, Tăng là tâm thanh tịnh). Người trí có chí nguyện xuất gia, giữ đạo trong sạch, phạm hạnh cao xa, từ bi với mọi loài.

8. Điều thứ tám: Người trí biết rõ sống chết như ngọn lữa bừng cháy, khổ não vô cùng; cho nên phát tâm rộng lớn, cứu độ hết mọi loài. Nguyện thay cho chúng sanh, nhận chịu vô lượng khổ, khiến cho chúng sanh rốt ráo an vui.
(Bát Đại Nhân Giác Kinh)

Con đường tu hành chân chính theo đạo Phật là phải xả bỏ những tâm niệm đầy tham lam, sân hận, si mê, trong kinh sách gọi là tà niệm, tạp niệm hay vọng niệm.  Dù tại gia hay xuất gia, người tu phải tự lực rèn luyện tu tập, luôn giữ gìn chánh niệm, luôn trau giồi thúc liễm thân tâm, cố sức tránh xa các ác pháp lợi mình hại người.

Con người phải đầy đủ nghị lực, phải gan dạ, kiên trì, chịu đựng và kham nhẫn, để mạnh dạn dứt bỏ những thói hư, tật xấu, chứ không phải chỉ biết thường vào nơi điện Phật chỉ để cúng kiến, lễ bái, cầu khấn, van xin, nương nhờ tha lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ, tiếp độ, trợ lực, cứu khổ cứu nạn, giải thoát khổ đau, tai ương, bệnh tật, hay phóng hào quang tiếp độ những vong hồn người chết về cõi Tây Phương Cực Lạc.

Con người phải phát tâm tự lực học hiểu chánh pháp, suy tư nghiền ngẫm những lời dạy quí báu trong kinh sách, để biết cách áp dụng, thực hành trong đời sống thực tế hàng ngày. Chứ không phải tu hành suông bằng cách chỉ biết tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền, hay chuyên luyện bùa, luyện phép để có thần thông, hay huyễn thuật, hoặc để khẩn cầu được sinh về Cực Lạc, Niết Bàn bằng những oai thần, tha lực của chư Phật, chư Bồ Tát, ngoài ra không còn gì hết, không biết gì hết !                           []             




 Ðôi khi, có người chỉ biết đặt niềm tin nơi đấng thiêng liêng nào đó, để cầu nguyện, van xin, khấn vái cho được tai qua nạn khỏi, cho được bình an, mà không chịu tìm hiểu hư thực, không chịu tìm hiểu Chân Lý, không chịu học hỏi Chánh Pháp, cho nên những người biết lợi dụng lòng mê tín dị đoan dễ gạt gẫm, dễ lợi dụng, dễ sai khiến, hậu quả khó mà lường trước được.
Trên thế gian này, chúng ta từng chứng kiến các cảnh phiền não khổ đau, nhiều hơn là bình yên vui sướng. Ngay trong cuộc đời của chúng ta, những sự bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện, cũng nhiều hơn những việc vui vẻ, vừa ý, toại nguyện.

Cho nên, nhận định cuộc đời "khổ nhiều vui ít", đó là sự thực rõ ràng, nhưng trong chúng ta ít người dám mạnh dạn nhìn nhận.  Con người vì mải mê đấu tranh, vật lộn với cuộc sống hằng ngày, nên không có thời giờ để suy tư, tìm hiểu.  Có người không muốn nhìn nhận sự thực đó, tự kỷ ám thị, tự lừa dối mình, cho rằng cuộc đời là vui đẹp, là đáng hưởng thụ, với mục đích tạm quên đi những đau khổ, bất hạnh trong cuộc sống, không biết ngày mai mình sẽ ra sao, không biết làm sao cho đời bớt khổ, cho đời hết khổ.

Khi gặp hoàn cảnh khổ đau, khi có điều bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện, con người chỉ biết than trời trách đất, hoặc trách cứ tổ tiên, trách cứ ông bà cha mẹ, ăn ở bất nhơn thất đức, cho nên cháu con mới ra nông nổi này!


VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
2017.2.25
Kính thưa quí vị,
VP. PHTQ.CANADA trân trọng đa tạ quí vị tiếp sức phổ biến chánh pháp,
chỉ rõ đâu là tà pháp xen lẫn trong sinh hoạt chùa chiền khắp nơi
để bá tánh hiểu rõ đâu là chánh pháp vi diệu.
Chánh pháp áp dụng trong đời sống hàng ngày sẽ giúp đem lại
an lạc và hạnh phúc
giác ngộ và giải thoát
cho bất cứ ai - không phân biệt tại gia hay xuất gia.

Tuy nhiên, có vài điều cần hiểu thấu đáo:

1. Cần phân biệt trí thức thế giantrí tuệ bát nhã
Người có học thức, kiến thức thế gian sẽ giúp đời giúp người về phương diện 
đời sống thế gian. 
Những vị này, dù ở các quốc gia văn minh, khoa học tiên tiến, vẫn u mê về 
phương diện tâm linh với đức tin mù quáng.
Người có trí tuệ bát nhã hiểu rằng thế gian vô thường,
nhân sinh vô ngã,
các pháp do nhân duyên sinh và do nhân duyên diệt,

phân biệt rõ ràng chánh pháp và tà pháp.

2. Trên thế gian có rất nhiều tín ngưỡng khác nhau tùy theo dân tộc,
địa phương, xuất xứ, giai cấp, học thức.
Những tín ngưỡng thế gian nếu xâm nhập vào sinh hoạt chùa chiền
- trái với chánh pháp -
thì đúng là tà pháp, ma pháp cần tránh xa,
dù các chuyện người ta tin rằng
đã xen lẫn trong chùa chiền vài trăm năm hay ngàn năm.
Ngay thời Đức Phật tại thế,
cũng đã có biết bao nhiêu tín ngưỡng theo tà đạo.

3. Con người ai ai cũng có tâm ma và tâm phật,
tâm ma hành theo tà pháp - tâm phật hành theo chánh pháp.
Tâm ma và tâm phật chỉ cách nhau sợi tơ. 

Tu sĩ hành ma pháp gọi là ma tăng.
Tu sĩ hành chánh pháp là các vị chân tu thực học.


4. Thầy tu chân chánh phải hành chánh pháp, theo chánh đạo
- dù tại gia hay xuất gia.
Thầy tụng 
(gọi đúng là thầy tụng đám ma hay đám cúng) 
chính là 
những người thế gian - giả dạng tu sĩ - bày đủ trò 
cúng kiến, lễ bái, nghi thức 
càng rườm rà phức tạp, vẽ bùa lăng quăng, càng tăng vẻ linh thiêng huyền bí,
càng dễ gạt gẫm người đời (kể cả người có kiến thức rất cao, bằng cấp) 
BỒ TÁT THƯỜNG BẤT KHINH 

Đọc và tụng phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh ở trong kinh Pháp Hoa, ta có thể học tập ở Ngài với bốn chất liệu: Đức Tin - Lòng Chân Thật - Sự Nhẫn Nhục và Hạnh Bất Khinh. Chính bốn chất liệu này, Ngài đã làm cho Pháp Hoa sáng chói ở nơi chính đời sống của Ngài và Ngài đã chuyển vận ánh sáng ấy xuyên suốt vào mọi thời đại mà Ngài hiện hữu.
Với đức tin, Bồ Tát Thường Bất Khinh tin tưởng tuyệt đối vào khả năng thành Phật ở nơi chính mình và mọi người. Ngài tin như thế, nên Ngài sống như thế, Ngài nói như thế và Ngài làm như thế, chứ không thể nào sống khác, nói khác và làm khác.

Với tấm lòng chân thực, Bồ Tát Thường Bất Khinh đã thiết lập tấm lòng này trên căn bản của đức tin Phật thừa. Do tin như vậy, nên Ngài sống như vậy và trải tấm lòng như vậy, với mọi người bất cứ lúc nào, và bất cứ ở đâu.
Với sự kiên trì nhẫn nhục, Bồ Tát Thường Bất Khinh cũng đã thiết lập chất liệu này trên nền tảng của đức tin Phật thừa, với sự soi rọi của tuệ giác và từ bi. Nên, sự kiên trì, nhẫn nhục của Ngài không phải là một kẻ bất lực, hèn yếu và thua cuộc. Trái lại, sự kiên trì, nhẫn nhục ấy là sức mạnh của tuệ giác và năng lượng của từ bi.
Nhẫn nhục mà có nội dung của sự chịu đựng khổ đau, sự nhẫn nhục ấy không phải là sự nhẫn nhục của Bồ Tát Thường Bất Khinh. Vì sao? Vì sự nhẫn nhục như vậy, chứng tỏ rằng, những khổ đau của mình đang bị đàn áp. Hễ có đàn áp tức là có phản ứng. Như vậy, mình đang chiến tranh với chính mình dưới một tác dụng khác âm ỉ và sẽ khốc liệt hơn khi có cơ hội.

Trái lại, nhẫn nhục mà có nội dung của tuệ giác và tình thương, thì sự nhẫn nhục ấy sẽ tạo nên chất liệu an lạc và hạnh phúc, tạo nên chất liệu vững chãi và hùng tráng.
Thực hiện hạnh nhẫn nhục tức là phải biết mở to đôi mắt ra để nhìn sâu rộng vào mọi vấn đề, chứ không phải nhẫn nhục là co lại không dám nhìn bất cứ một cái gì.
Sự hiểu biết sâu và rộng, thì không còn có bất cứ một sự đối kháng nào về mặt kiến thức, tri thức và tranh luận.

Ví như, sự sâu rộng của biển là làm chỗ cho mọi con sông đổ về, dù bao nhiêu con sông có đổ về, thì biển cũng dung chứa mà không hề phản ứng, giận dữ hay tranh cãi gì với chúng.
Nên, thực hành hạnh nhẫn nhục là mở to đôi mắt để nhìn sâu và rộng vào mọi vấn đề, để mỗi khi mọi vấn đề khúc mắc của bản thân và xã hội đi vào trong đời sống của ta, thì chúng đều bị sự hiểu biết sâu rộng ở trong ta chuyển hóa.

Và thực hành hạnh nhẫn nhục, không nên hiểu là sự chịu đựng, khi bị con dao đâm vào trái tim, theo ngôn ngữ biểu tượng của Hán, mà thực hành hạnh nhẫn nhục là phải mở tung trái tim ra, mở tung cõi lòng ra. Cõi lòng càng khép lại, khi gặp sự đối kháng, thì tiếng nổ và tiếng vang dội càng lớn. Bởi vậy, người càng ích kỷ bao nhiêu, thì sự sân si và giận dữ của họ, lại càng bén nhạy bấy nhiêu và họ là đối tượng cho mọi con dao thế gian đâm vào.
Thực hành hạnh nhẫn nhục là sống với đôi bàn tay và tấm lòng chân thực mở rộng. Nên, nhẫn nhục là hạnh khó làm bậc nhất.

Hạnh ấy là một trong những hạnh căn bản của sự thực tập, để thành tựu tuệ giác vô thượng và làm lợi ích cho đời. Hạnh ấy là phép lạ của mọi sự thành công. Nhưng, nhẫn nhục thành công là nhờ luôn luôn có mặt của hạnh Bất Khinh, nên với hạnh Bất Khinh, Bồ Tát Thường Bất Khinh đã biểu lộ sự cẩn trọng tuyệt đối của mình, ngay trong từng giây phút của sự sống, nghĩa là Bồ Tát không khinh suất, bất cứ ai, dù người đó đã từng hủy báng mình, đã từng ném đá vào mình. Và quan trọng hơn hết là Bồ Tát không khinh suất bất cứ một động tác nào của mình, nên bất cứ động tác nào của Bồ Tát cũng là động tác của sự cẩn trọng. Đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng hành xử, kính lễ đều an trú một trăm phần trăm trong sự cẩn trọng. Do thực hành hạnh bất khinh hay hạnh cẩn trọng, mà Bồ Tát đã thành tựu về các mặt Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ, và cũng do thực hành hạnh bất khinh và cẩn trọng, mà Bồ Tát đã không làm cho ai bị khổ đau bởi một cử chỉ nhỏ nhặt của Ngài.

Nên, Bồ Tát xuất hiện giữa cuộc đời để giúp đời bằng chất liệu bất khinh và sự cẩn trọng của chính mình. Bất khinh là bố thí cho đời bằng sự cẩn trọng và sự khiêm tốn, nên bất khinh là thực hành Bố thí độ; bất khinh thì không có điều ác nào là không nhiếp phục, không có điều thiện nào là không khởi sinh, nên bất khinh là thực hành Trì giới độ; bất khinh thì không có gì để sơ suất giận dữ, để oán ghét và chịu đựng, nên bất khinh là thực hành Nhẫn nhục độ; bất khinh thì chỉ có đi tới, không còn có sự thối lui, nên bất khinh là thực hành Tinh tấn độ; bất khinh thì không mất chánh niệm, không mất định tĩnh khi tiếp xúc với mọi đối tượng thuận nghịch, nên bất khinh là thực hành Thiền định độ và bất khinh thì không còn ngộ nhận, không còn thiếu sót, không còn sân hận, không còn sai lầm, nên bất khinh là thực hành Trí tuệ độ.

Bất khinh thì không còn kiêu mạn. Kiêu mạn không còn là ngã chấp đã đoạn. Bất khinh thì sự phân biệt kỳ thị không còn. Sự phân biệt và kỳ thị không còn là pháp chấp đã đoạn.
Chấp ngã và chấp pháp không còn, là ta đã thể nhập vào thực tại vô biên của sự sống, đó là đời sống hay thọ mạng của Như Lai.
Nên, bất khinh là khởi đầu cho hạnh thực tập và thường bất khinh là kết quả viên mãn của sự thực tập. Thường bất khinh là Phật tính, thực tập hạnh bất khinh là đi về và sống với Phật tính.

Nói rõ hơn, thực tập hạnh bất khinh là thực tập hạnh Pháp Hoa và Thường Bất Khinh chính là đời sống của Pháp Hoa vậy.
Hạnh ấy là phép lạ của mọi sự hoàn thiện, và đời sống ấy là đời sống diệu thường giữa những sinh hoạt bình thường của thế gian và của con người.
Bồ Tát Thường Bất Khinh đã có đức tin tuyệt đối vào khả năng thành Phật của chính mình và khả năng thành Phật của mọi người, nên đem hết tấm lòng chân thật mà kính lễ, ca ngợi đức tính ấy của mọi người và dập tắt lòng kiêu mạn ở nơi chính mình bằng hạnh bất khinh.



BỐ THÍ KHÔNG ĐƯỢC PHƯỚC
Quảng Tánh

 

Bố thí là một trong những pháp hành phổ biến của người đệ tử Phật. Hãy cho đi một phần những gì mình có để tạo phước cho hiện tại và mai sau. Dĩ nhiên, người con Phật bố thí luôn hướng đến mục tiêu lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Cho đi để mình và người đều lợi ích, an lạc mới được gọi là bố thí đúng nghĩa.
Thực tế ở đời có nhiều sự cho đi nhưng không phải trường hợp nào cũng được ngợi khen và có phước đức. Như cho người phương tiện làm ác, cho người sự chết chóc, cho người sự bất an, cho người sự say đắm sắc dục, cho người sự mê tín và lệ thuộc thần linh thì chẳng những không được phước mà còn mang tội. Hãy nghe lời Phật dạy về những điều nên và không nên trong hạnh thí xả hàng ngày.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có năm sự bố thí không được phước. Thế nào là năm? Lấy dao thí cho người, lấy độc thí cho người, lấy bò hoang thí cho người, lấy dâm nữ thí cho người, tạo các miễu thần.
Đó là, này Tỳ-kheo! Có năm việc bố thí không được phước. Tỳ-kheo nên biết, lại có năm việc bố thí khiến được phước lớn. Thế nào là năm? Tạo vườn cảnh, tạo rừng cây, tạo cầu đò, tạo thuyền lớn, tạo phòng xá trụ xứ cho người qua lại.
Đó là, Tỳ-kheo! Có năm việc này khiến được phước.

Thế Tôn liền nói kệ:
Vườn cảnh thí mát mẻ/ Và tạo cầu đò tốt/ Bến sông đưa mọi người/ Và làm phòng nhà tốt/ Người đó trong ngày đêm/ Hằng sẽ nhận được phước/ Giới định đã thành tựu/ Người này ắt sanh thiên.Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy nhớ tu hành năm đức thí này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Tà tư, VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.360)

Thật rõ ràng, đem hung khí hay vũ khí nói chung cho người thì không được phước. Đối với người hung hăng, thiếu kiềm chế hay chưa đủ chín chắn mà có được hung khí thì nguy to. Nhà nước kiểm soát vũ khí và các hung khí sát thương rất chặt chẽ cũng không ngoài lý do này. 
Đem chất độc cho người, dù gián tiếp hay trực tiếp cũng tạo ra sự tổn hại. Chỉ riêng việc vì lợi nhuận mà cố tình gây ô nhiễm thực phẩm ngày nay cũng đã gây tổn hại nghiêm trọng cho cá nhân và xã hội. Ngoài các chất độc đúng như nghĩa đen của nó, còn có những độc tố về tinh thần, về quan niệm sống, về cách ứng xử đã và đang đầu độc con em chúng ta khiến đời sống đạo đức càng thêm xuống cấp.
Bò hoang trong văn hóa Ấn Độ là sinh vật linh thiêng, được tôn thờ như vị thần, là biểu tượng bất khả xâm phạm. Ai đụng đến bò hoang là xúc phạm thánh thần, cận kề với tai họa. Thế nên, “thí bò hoang cho người” cũng chẳng khác nào đem lửa bỏ vào tay họ, khó tránh khỏi thảm họa cháy tay.
Đem mỹ nữ cho người sẽ khiến cho tham ái và phóng dật tăng thêm. Người say đắm sắc dục quá độ khí huyết sẽ suy hao, sức khỏe và trí lực sa sút, bị sắc đẹp mê hoặc nên dễ làm điều phi pháp. 
Đáng suy ngẫm nhất là tạo dựng các am miễu thờ cúng quỷ thần, việc làm này không có phước. Vì sao? Việc thờ phụng này sẽ khiến cho người ta có khuynh hướng ỷ lại, cầu cạnh quỷ thần ban phúc giáng họa, sa đà vào mê tín dị đoan mà không lo chuyển hóa nghiệp lực của chính mình.
Thế Tôn khẳng định, năm sự bố thí kể trên vốn không được phước. Ngược lại, Ngài khuyến khích mọi người hướng tâm vào những việc phúc lợi cho cộng đồng như “Tạo vườn cảnh, tạo rừng cây, tạo cầu đò, tạo thuyền lớn, tạo phòng xá trụ xứ cho người qua lại” để được phước báo lớn.

BỐN HẠNG NGƯỜI ĐÁNG KÍNH
Quảng Tánh

Sự tu tập trong Phật giáo, cốt tủy vẫn là “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Nghĩa là tự lực và tha lực luôn tương tác, hỗ trợ nhau trong tu tập nhưng tự lực vẫn là chính, trọng tâm của việc thực hành giáo pháp.
Người tu muốn thành công phải theo thứ lớp, tuần tự từ thấp lên cao. Trước phải có lòng tin, không rời kinh điển rồi sau mới tự mình thân chứng và đến nơi các Thánh quả.
Người đệ tử Phật cất bước vào bốn lãnh vực này, Thế Tôn gọi là “người đáng kính, đáng quý, là phước điền của đời”.           

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay có bốn loại người đáng kính, đáng quý, là phước điền của đời. Thế nào là bốn? Nghĩa là gìn giữ lòng tin, vâng theo giáo pháp, tự thân chứng và thấy được đến nơi.
Thế nào gọi là người gìn giữ lòng tin? Hoặc có một người chịu người dạy dỗ, dốc một lòng tin, ý không nghi nan. Có lòng tin đối với Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Họ cũng tin lời Như Lai, cũng tin lời Phạm chí; hằng tin lời những vị ấy, không chấp giữ trí mình. Đó gọi là người giữ gìn lòng tin.
Thế nào gọi là người tự vâng theo giáo pháp? Ở đây có người phân biệt pháp, không tin người khác, quán sát pháp là có hay không, là thực hay hư. Người ấy liền nghĩ: ‘Đây là lời Như Lai. Đây là lời Phạm chí’. Vì biết đây là pháp ngữ của Như Lai, người ấy liền phụng trì, còn các lời ngoại đạo thì xa lìa. Đó gọi là người vâng theo giáo pháp.
Thế nào gọi là người thân chứng? Ở đây, có người thân tự tác chứng, họ cũng chẳng tin người khác, cũng chẳng tin lời Như Lai. Họ cũng chẳng tin các ngôn giáo của các bậc tôn túc nói, chỉ theo tánh mình mà đi. Đó gọi là người thân chứng.
Thế nào gọi là người thấy đến nơi? Ở đây, có người đoạn ba kiết sử, thành tựu pháp Tu-đà-hoàn, chẳng thối chuyển. Người ấy có được cái thấy rằng có bố thí, có người nhận, có quả báo thiện ác, có đời này, đời sau, có cha, có mẹ, có A-la-hán... Người ấy thọ giáo, thân tín, tác chứng mà tự du hóa. Đó gọi là người thấy đến nơi.
Đó là, này Tỳ-kheo! Có bốn người này. Hãy nhớ trừ bỏ ba người trên. Nhớ tu pháp thân chứng. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Tứ đế, 
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.29)


Hạng người đáng kính quý trước tiên là có lòng tin. Chánh tín là niềm tin bất động vào Tam bảo. Như Lai và các bậc Thánh phạm hạnh là những bậc giác ngộ, giới đức; là những ngọn đuốc sáng soi đường; là ruộng phước tối thắng. Niềm tin vào Tam bảo càng kiên cố thì sự nỗ lực hướng thiện cùng với công đức, phước báo của tự thân càng tăng thêm.
Không chỉ tin Phật mà còn vâng theo giáo pháp của Ngài. Nhất là khi Thế Tôn đã nhập Niết-bàn từ rất lâu xa thì sự vâng theo giáo pháp chính là được gặp Phật, được nghe Ngài thuyết pháp. Chính nhờ sự y theo giáo pháp nên hiểu và thực hành đúng Chánh pháp, không bị lạc vào các tà thuyết ngoại đạo. Đây chính là hạng người đáng kính thứ hai.
Quan trọng là, khi đã tin và hiểu Chánh pháp rồi thì tự mình phải tu tập để chứng nghiệm lấy. Vì sao đến đoạn kinh này Thế Tôn lại nói “chẳng tin lời Như Lai, chẳng tin các ngôn giáo của các bậc tôn túc” mà “chỉ theo tánh mình mà đi”? Bởi ăn bánh vẽ thì không thể no, đếm tiền giúp người thì không thể là giàu. Giác ngộ và giải thoát mà các Ngài nói ra là của các Ngài chứ không phải của mình. Hiểu và nhớ thật nhiều những điều các Ngài chứng ngộ không có nghĩa là mình chứng ngộ. Nên học Phật đến một chừng mực nào đó thì phải buông để tự thân chứng, tâm tức Phật, theo tánh mình mà đi. Đây chính là hạng người đáng kính thứ ba.
Cuối cùng là hạng người đạt đến Thánh quả đầu tiên, Sơ quả Tu-đà-hoàn. Chỉ cần đặt bước chân vào dòng Thánh thôi đã xem như đạt bất thối chuyển. Từ Sơ quả, bậc Thánh giả tuần tự thăng tiến các Thánh vị và đạt đến giải thoát tối hậu.
Thế Tôn nói về bốn hạng người đáng kính quý này đồng thời cũng là bốn chặng đường người tu phải trải qua để thành tựu giải thoát.


Sống đời vui đạo
(Sống trong tương đối - Vui với tuyệt đối)
Thương ghét, phải quấy, đẹp xấu, đúng sai, hơn thua, chính là vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính thực là con trâu, mà người tu theo Phật phải chăn phải dắt, phải kềm phải chế, phải điều phải khiển, phải thuần phải phục, thúc liễm luôn luôn. Chăn trâu thành công thì Tánh Giác hiển lộ. Ðiều quan trọng là: "Con người hãy chăn dắt con trâu, chớ để con trâu dẫn dắt con người! Nếu để con trâu dẫn dắt, không biết con người sẽ đi về đâu?". Cho nên mới có pháp tu gọi là "Pháp Môn Chăn Trâu", chính là nghĩa đó vậy.
Chăn trâu nghĩa là: áp dụng Chánh Pháp, vào trong cuộc sống, của mình hằng ngày, dẹp trừ vọng tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm liên miên, chuyển hóa ba nghiệp, thân khẩu ý mình, bất lương bất thiện, thành ra ba nghiệp, hoàn toàn thanh tịnh. Chăn trâu nghĩa là: không theo sức mạnh, sức kéo sức lôi, của tâm tham lam, sân hận si mê.
Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật: Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là Chơn Tâm. Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành vọng tâm. Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động. Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh. Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có: cúng kiến lễ lạy, van xin cầu nguyện, không còn gì khác!
Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho người khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân mình, thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây, ngay trên thế gian này!
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở trong thâm tâm của tất cả chúng ta. Cũng ví như biển động hay biển lặng, tuy khác nhau, nhưng đều là hai trạng thái của biển mà thôi vậy.
Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
Cư-sĩ Chính-Trực



TU TÂM SỬA TÁNH
VÌ NGƯỜI HAY VÌ MÌNH?
-      Ngoại à! Ngoại mua mấy cái bánh cam nầy hôi hết rồi làm sao mà ăn đây, lần sau Ngoại đừng có mua nữa!.
-      Cháu à! Con thấy ăn được thì ăn, không thì bỏ đi. Vì Ngoại thấy đứa nhỏ bằng tuổi đi học giống như cháu, mà không được đi học phải bưng rỗ bánh cam đi bán, áo quần cũng không lành lặn. Nghĩ vậy thay gì Ngoại cho nó tiền, Ngoại mua hết rỗ bánh cam còn lại đó thôi, cháu hiểu thì đừng cằn nhằn Ngoại nữa được không?.
-      Cám ơn Ngoại, đã dạy cho con biết suy nghĩ vì người không vì mình quá nhiều!!!

CHẤP HAY KHÔNG CHẤP?
-      Má à! anh rể và chị Hai mê tín chấp rằng trong nhà mình đang có tang Ba xui lắm, không muốn Má đi dự đám cưới cháu ngoại, thôi thì Má cũng đừng thèm đi nha!
-      Hồi sáng nầy, anh rể và chị Hai của con có đến xin lỗi và xin Má tha thứ những lời nói vô tình xúc phạm đến Má. Năn nỉ Má thương con cháu đừng chấp. Má quyết định rồi, Má sẽ đi đưa cháu ngoại về nhà chồng. Nếu Má không đi, thì người chấp, người mê tín là Má đó.

PHƯỚC Ở ĐÂU?
-      Anh làm người tốt có ích gì, phải nghĩ cho bản thân, cho vợ con gia đình anh sung sướng, đầy đủ giàu có trước, khi nào có dư giả rồi hãy nghĩ đến làm tốt giúp người khác có được không?
-      Được chứ! Như vậy anh sẽ hưởng hết phước rồi, còn đâu dành cho em và con nữa!! khi muốn em thỏa mãn sung sướng và giàu có thì anh phải tạo nghiệp bất thiện, vì gia đình hại người, cuối cùng thì phước hay họa tới đây?!!..Anh làm chuyện tốt giúp người là đang tạo phước an lành, hạnh phúc cho các con và em đó.

CÓ NÊN MUA HAY KHÔNG MUA?
-      Thưa Ba, có một số người đến nhà con bán nhang đèn, có khi mặc y phục tu sĩ. Con lưỡng lự, không biết có nên mua không, họ là người tu thật hay giả?
-      Con có cần dùng nhang đèn hay không? Đó mới là điều cần thiết phải suy nghĩ mua hay không mua. Họ là người bán con là người mua, có sự trao đổi, việc gì không thiệt thòi mình cũng không hại người thì con làm đúng là vậy đó.
 




TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP