Wednesday, January 4, 2017

*** BẢN TÂM THANH TỊNH LÀ PHẬT TÂM - 10 MẨU CHUYỆN ĐỜI -





BẢN TÂM THANH TỊNH LÀ PHẬT TÂM
Lương tâm và Phật tâm
TK Thích Chân Tuệ
 
Trên thế gian này, từ cổ chí kim, có nhiều tôn giáo, xuất hiện tồn tại, cho đến ngày nay. Có nhiều tôn giáo, giáo phái tín ngưỡng, thành lập sinh hoạt, chỉ một thời gian, rồi tự biến mất. Theo luật đào thải, cái gì xấu dở, không được tiện dụng, không lợi ích gì, không ai chịu dùng, không ai nghe theo, sẽ không tồn tại. Nhờ trí sáng suốt, chúng ta có thể, phân biệt rõ ràng, tà giáo chánh giáo.

Tà giáo là những, giáo phái tín ngưỡng, không đem lợi ích, đến cho con người, không đem bình yên, ở trong tâm trí, chỉ đem lợi lộc, cho một thiểu số, giai cấp lãnh đạo. Tà giáo chủ trương, không cần trí tuệ, chỉ cần đức tin, làm cho con người, ngày càng u mê, ngu ngơ tăm tối, nhắm mắt tin càng, bất cứ những gì, vị giáo chủ nói, bất cứ những gì, giáo hội phán ra, không được suy nghĩ, phân biệt đúng sai, thường được gọi là: những người cuồng tín.

 Tà giáo thường hay, xúi giục tín đồ, hy sinh tài sản, của cải vật chất, kể cả sanh mạng, bất cứ giá nào, để được phong thánh, được lên thiên đàng. Tà giáo có mặt, ở các xứ nghèo, lạc hậu chậm tiến, dân trí thấp kém, và còn xuất hiện, ở xứ văn minh, vật chất cực thịnh, chẳng hạn như là: xứ Canada, Hoa Kỳ Anh Pháp, Ðức Ý Nhật Bản. Tà giáo phát triển, phạm vi giới hạn, không gian thời gian, không thể phát triển, trên khắp toàn cầu, nếu không xử dụng, chiến tranh xâm lược, thủ đoạn tinh thần, mê hoặc nhân tâm, linh thiêng huyền bí, cưỡng ép hôn nhân, chính trị kinh tế. Khoa học nhân loại, ngày càng phát triển, tà giáo lu mờ, niềm tin lung lay, tín đồ giảm sút, giáo chủ lo âu.

Chánh giáo là những, tôn giáo chân chánh, chỉ dạy pháp môn, phương pháp dẹp trừ, phiền não khổ đau, đem lại bình yên, trong tâm con người, đem lại an lạc, hạnh phúc hiện đời, giúp đỡ con người, giác ngộ giải thoát, khỏi vòng sanh tử, luân hồi nghiệp báo. Chánh giáo chủ trương, bất tùy phân biệt, không hề kỳ thị, phát triển đến đâu, hòa nhập đến đó, trong sự hòa bình, hòa hợp bình an, không gây chiến tranh, không gây mâu thuẫn, không chống trái nhau, như nước pha sữa, tuy hai mà một. Chánh giáo chủ trương, tự do tín ngưỡng, phát triển tâm linh, tự nguyện tự tín. Chánh giáo luôn luôn, đem lại cho người, những niềm an ủi, ngay trong đời sống, những niềm vui tươi, cho những tâm hồn, đang bị nhiệt não, vì các hệ lụy, của thế gian này. Khoa học nhân loại, ngày càng phát triển, chánh giáo sáng tỏ, chứng minh rõ ràng, niềm tin vững chắc, nhờ các phát minh, khoa học kỹ thuật. Dĩ nhiên tín đồ, ngày càng nhiều hơn, niềm tin vững hơn, có nhiều lợi ích, thực tế rõ ràng, ngay trong cuộc sống. 

Người ta cho rằng: tất cả tôn giáo, đại cương giáo lý, thảy đều giống nhau, chẳng hạn như là: khuyên răn dạy dỗ, làm lành lánh dữ, cải ác tùng thiện, nhằm đạt mục tiêu, kiến tạo xã hội, an ninh trật tự, bình yên hạnh phúc. Nói chung, để đạt cứu cánh, hầu hết tôn giáo, đều dạy con người, sống với "Lương Tâm". Thế giới luôn luôn, đề cao phát triển, lương tâm con người, lương tâm nhân loại. Chúng ta hãy thử, tìm hiểu thử xem: Lương Tâm là gì? Người có lương tâm, khác với người đời, như thế nào? Còn trong giáo lý đạo Phật, từ ngữ "Phật Tâm" có ý nghĩa gì, có sự khác biệt nào không?
* * *
Trong phạm vi bài này, chúng ta tìm hiểu: "Lương tâm và Phật Tâm", theo quan điểm của đạo Phật mà thôi. Người trên thế gian tin Phật, thờ Phật, cúng Phật, lạy Phật, chưa hẳn là Phật Tử chân chánh, dù tại gia hay xuất gia. 

Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai". 

Tại sao vậy? Bởi vì, những người chỉ biết, tin tưởng Như Lai, tức là tin Phật, như là tin tưởng, một vị thần linh, hay là thượng đế, quyền năng tối thượng, ban phước những ai, cầu nguyện phụng thờ, lễ lạy tin theo, sẵn sàng giáng họa, những ai không tin, không chịu thờ lạy, những người như vậy, chỉ là những người, phỉ báng đạo Phật. Những người như vậy, chẳng hiểu biết gì, Chánh Pháp đạo Phật, dù họ ở chùa, hay ở tại gia, dù họ mang bất cứ hình tướng nào chăng nữa.

Chúng ta nên biết một cách rõ ràng, một cách tường tận và chắc chắn rằng: Ðức Phật không phải là thần linh, không bao giờ ban phước hay giáng họa cho bất cứ ai. Ðức Phật là con người đã giác ngộ và giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Ðức Phật chỉ dạy rành rẽ con đường tu tập, giảng giải đầy đủ các pháp môn hành trì, tùy theo căn cơ trình độ, hoàn cảnh và sở nguyện của mỗi người, dành cho bất cứ ai muốn đi đến chỗ giác ngộ và giải thoát, không phân biệt là Phật Tử hay không là Phật Tử, không phân biệt tại gia hay xuất gia. Nhưng muốn được giác ngộ và giải thoát, hay ít ra, muốn được an lạc và hạnh phúc hiện đời, con người phải làm sao, phải làm gì? 

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp". 

Phật độ hữu duyên nhơn. Ðức Phật chỉ có thể cứu độ những người hữu duyên, tức là những người chịu thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của mình, bằng cách mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, nhờ đó mới có thể phá tan màn vô minh, thấu rõ chân lý, biết pháp môn thực hành. Nói một cách khác, nếu những người nào, phát tâm bồ đề, cầu học Chánh Pháp, thực hành giáo lý, vào trong đời sống, hằng ngày hiện đời, mới có thể nếm, pháp vị vi diệu, cao siêu mầu nhiệm, mới có thể sống, an lạc hạnh phúc, mới có thể đạt, cứu kính đạo Phật, đó là: "giác ngộ và giải thoát". Cũng ví dụ như, một vị bác sĩ, chỉ có thể cứu, những người có bệnh, nhưng chịu chữa trị, chịu nghe lời khuyên, và chịu uống thuốc, mà thôi.
Toàn bộ giáo lý nhà Phật được ghi chép trong tam tạng kinh điển, gồm có: Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Luận. Ngày xưa, có một vị quan Tể Tướng đến tham vấn đạo, muốn được biết cốt tủy của đạo Phật, làm sao có thể tóm gọn được tam tạng giáo kinh điển nhà Phật.

Một vị Thiền Sư bèn chỉ dạy bài kệ, trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, như sau:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là:
Việc ác không làm
Làm các việc thiện
Giữ tâm thanh tịnh

Ðúng lời Phật dạy. 

Vị quan đó nói: Như vậy dễ quá, con nít lên tám, cũng có thể biết. Thiền sư từ tốn: Con nít lên tám, có thể biết được, ông già tám mươi, suốt đời thực hành, cũng vẫn chưa xong! Thực vậy, biết suông nói suông, việc gì cũng dễ, nhưng thực hành được, một cách chu toàn, mới thực là khó.
* Hơn nữa, chúng ta nên biết rằng: Người nào thực hành được hai câu đầu của bài kệ, đó chính là người có lương tâm ở trên thế gian này. Còn người nào thực hành được đến câu thứ ba của bài kệ, đó chính là người sống được với Phật Tâm, còn được gọi là bản tâm thanh tịnh của con người. Ðó mới chính thực là cứu kính của đạo Phật.
Nói một cách đơn giản, lương tâm là tâm lương thiện, hiền lương, thiện lành. Theo sách vở thế gian, lương tâm có nghĩa là: nhận thức nội tâm theo lẽ phải, nhận thức đúng sai, phải trái, khả năng tự đánh giá hành vi của mình về phương diện lẽ sống và đạo đức. Lương tâm có nghĩa là tâm công minh, chính trực, sách vở gọi là: Công Tâm hay Trực Tâm. Người có lương tâm luôn luôn chỉ làm các việc thiện lành, lương thiện, ích lợi cho mình và cho người, với tất cả tấm lòng chân thật, hiền lương, không làm các việc xấu ác, lợi mình hại người, không gây phiền não khổ đau cho người khác. Người có lương tâm luôn luôn đem lại sự bình yên hạnh phúc cho mọi người, an ninh trật tự cho xã hội, là mẫu người lý tưởng, đáng tôn trọng kính mến, nhưng rất khó thực hiện. Tại sao vậy? Bởi vì: Sống trên thế gian này,
- "việc ác không làm" không phải là điều dễ dàng.
- "làm các việc thiện" không phải là điều dễ dàng.
- "giữ tâm thanh tịnh" là điều khó khăn nhứt.
* * *
1) Sống trên thế gian này, "việc ác không làm" không phải là điều dễ dàng. Thế nào là việc xấu việc ác, việc dữ hay việc bất thiện? Theo sách vở thế gian, việc xấu, việc ác, việc dữ, việc bất thiện, có nghĩa là: những việc làm không tốt, đáng khinh khi, đáng chê trách, đáng xấu hổ, đáng hổ thẹn, trái với đạo đức, không hợp lẽ phải, lợi mình hại người, gây phiền não, tạo khổ đau, đem tai họa đến cho người khác, do tâm ích kỷ, ganh tị đố kỵ, hơn thua phải quấy, mục hạ vô nhơn, cống cao ngã mạn, khen mình khinh người, thúc đẩy sai khiến. Theo kinh điển nhà Phật, một cách tóm gọn, việc xấu việc ác, việc dữ bất thiện, đều phát xuất từ: tâm tham sân si. 

Do nghiệp chướng huân tập lâu đời, tức là do thói quen trong cuộc sống hằng ngày, con người quen làm các chuyện xấu dở, ác ôn, độc địa, hại người, một cách dễ dàng. Nhưng khi con người muốn ngưng các chuyện như vậy, không làm hoặc không làm nữa, trong kinh sách gọi là: "dừng nghiệp và chuyển nghiệp", thì rất khó khăn. Có người cảm thấy sung sướng khi làm cho người khác bực bội, đau khổ, thua thiệt, tàn mạt, sống không yên, chết không được! Có người cảm thấy sung sướng khi nói những lời, khiến người khác nhức nhối tức tối, lắc đầu chịu thua, mới được hả dạ, kể cả người đó là vợ hay chồng, anh chị em, thậm chí là cha mẹ. Có người cảm thấy sung sướng khi suy tư nghĩ tưởng những điều lợi mình hại người! Trong kinh sách, gọi đó là tam nghiệp: "thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp". Tam nghiệp được thanh tịnh, con người đồng với chư Phật sống ở cảnh giới tây phương. Tam nghiệp chưa được thanh tịnh, làm sao cuộc sống được an lạc và hạnh phúc?
Những người chỉ biết đi chùa lễ lạy, cúng kiến, ăn chay một tháng vài ngày, thậm chí ăn chay trường, góp chút công của vào các việc từ thiện, hay ấn tống kinh sách, tụng kinh rầm rầm, đọc chú rào rào, gỏ mỏ đánh chuông vang rân, hoặc ngồi thiền thở ra hít vô, nhưng chẳng hiểu mục đích để làm gì, nhứt là khi tam nghiệp chưa thanh tịnh, mà cầu nguyện vãng sanh tây phương cực lạc, cầu nguyện gặp chư Phật, có khi còn cầu nguyện cho tất cả cửu huyền thất tổ, nội ngoại song thân, ông bà cha mẹ, cùng vãng sanh cực lạc, thì đúng thực là: "những người đang sống trong cơn mê!". 

Chính vì sống trong cơn mê, không biết thân này giả tạm, không biết tâm này vô thường, biến đổi luôn luôn, con người tạo tội tạo nghiệp không ngừng, cho nên trôi lăn trong sanh tử luân hồi đã bao nhiêu kiếp rồi, vẫn chưa thức tỉnh. Chỉ vì miếng ăn ngon trong chốc lát, con người tìm đủ mọi cách ăn uống cầu kỳ, bất chấp sự đau khổ của các con vật bị giết làm thịt một cách hết sức dã man. Chỉ vì một lời nói khó nghe, một lời khuyên chạm tự ái, con người có thể trả thù người khác bằng đủ mọi cách, từ trong ý nghĩ ác độc, sắp đặt kế hoạch hại người, cho đến lời nói cay cú, nghiệt ngã, gây nhức đầu nhói tim kẻ khác, và hành động tàn nhẫn, vu khống cáo gian khiến người lâm nạn. 

Có những việc lợi mình hại người, nhưng nhỏ nhặt, con người có thể tránh được, không làm. Nhưng nếu việc lợi mình hại người đó đem lại bạc triệu đô la, sức hấp dẫn thực là kinh khủng, bao nhiêu người trên thế gian đã không chống cự nổi lòng tham lam ham muốn thèm thuồng muôn thuở của mình, sẵn sàng lao đầu vào, dù biết đó là việc tạo tội tạo nghiệp, cũng bất chấp hậu quả khổ đau gây ra cho người khác và gia đình của họ, thậm chí bất chấp hậu quả xảy ra cho chính bản thân mình. Chẳng hạn như thấy của rơi trị giá nhỏ nhoi, người ta lượm được, có thể trả lại cho chủ nhân, để nhận được lời khen tán thưởng. Nhưng nếu của rơi là vài chục lượng vàng y, hay vài trăm ngàn đô la, thì việc trả lại cho khổ chủ thực là khó làm lắm thay! 

Chẳng hạn như có người xúi làm chuyện bất chánh hoặc phi pháp, đem lại mối lợi không lớn lắm, con người còn sợ bị pháp luật trừng trị, còn sáng suốt nhớ tới luật nhân quả, biết sợ hậu quả, không dám làm theo. Nhưng nếu việc đó, đáng vài triệu đô, dù cho khó khăn, nguy hiểm đến đâu, dù có phạm pháp, lương tâm cắn rứt, có người bất chấp, dùng đủ thủ đoạn, giựt hụi quịt nợ, thưa gửi kiện tụng, vu khống cáo gian, đặt điều thêm bớt, cố ý gạt gẫm, dụng tâm hại người, dù là người thân, hay người hiền thiện, họ cũng mặc kệ, miễn sao thu được, số tiền lớn lao, đến nổi tối tâm, tối mặt như vậy. Ðịa ngục nơi đâu, người khác đau khổ, gia đình tan nát, họ cũng dửng dưng, chẳng cần biết đến! 

Chẳng hạn như là: Người có tâm tham, rất khó thực hành, bố thí cúng dường, giúp người nghèo khó. Người đời có câu: Ðồng tiền liền khúc ruột. Những người như vậy, mất một đồng tiền, họ có cảm giác, đứt từng khúc ruột. Ðối với họ đồng tiền to hơn cái bánh xe. Ngay cả chồng vợ con cái, ông bà cha mẹ, họ cũng coi nhẹ, rẻ hơn đồng tiền! Ðời họ chỉ biết: làm tiền, nhận tiền, kiếm tiền, nhặt tiền, lượm tiền, thu tiền, đếm tiền, cất tiền, giấu tiền, nhưng không bao giờ biết chữ "cho tiền" viết ra làm sao. Chữ tiền làm mắt họ mờ tối, và chữ tiền đeo theo họ cho đến giây phút từ giã cõi đời này. 

Chẳng hạn như là: Người có tâm sân, coi trọng bản ngã, tự ái rất cao, rất khó thực hành, hạnh lành ái ngữ. Ái ngữ tức là: nói năng nhỏ nhẹ, từ tốn hòa nhã, êm ái dịu dàng, dễ thương dễ nghe, nói lời ngọt ngào, thường hay khen tặng, đem lại nụ cười, an lạc vui tươi, cho người khác nghe. Trái lại, những người sân hận, thường kiếm những lời, xỉa xói móc họng, khen mình khinh người, trả đủa thực nặng, có thể làm cho, đối phương choáng váng, nhức đầu ngất xỉu, hay nghỉ thở luôn! Họ có thói quen, không ưa người nào, liền thích chọc tức, bằng lời khó nghe, xui khiến người khác, quấy rầy quậy phá, bằng không làm vậy, họ ngủ chẳng được! 

Chẳng hạn như là: Người có tâm si, rất khó thực hành, hạnh lành vị tha, chỉ luôn vì mình, không thấu suốt luật, nhân duyên quả báo. Những người si mê, luôn luôn ích kỷ, chuyện nào lợi mình, hay gia đình mình, dù cho hại người, cũng vẫn cứ làm. Những người như vậy tức nhiên chỉ thấy được kiếp sống này của con người, chỉ mong kiếp sau mình được lên thiên đàng, còn người khác phải đọa địa ngục. Họ không biết rằng: chính những nghiệp lực, do thân khẩu ý, tạo tác hằng ngày, sẽ dẫn dắt họ, vào vòng sanh tử, luân hồi khổ đau, ở trong lục đạo: thiên, nhân, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.

Bởi vậy cho nên, chúng ta nhận thấy, sống ở trên đời, người ta thích thú, kiện tụng lẫn nhau, bất chấp khổ đau, của bao người khác, người ta buôn lậu, những hàng quốc cấm, bất chấp hiểm nguy, bất chấp tác hại, nguy hiểm lâu dài, của món hàng đó, đối với quốc gia, đối với xã hội, đối với con người. Gạt gẫm người thân, dù là anh em, thậm chí cha mẹ, dính vô tội lỗi, họ cũng chẳng từ! Dù cho nhiều lúc, tránh được pháp luật, qua mặt chính quyền, làm ăn trót lọt, kiếm được nhiều tiền, phủ phê sung sướng, nhưng chỉ tạm thời, ăn quen làm nữa, gặp lúc hết thời, người đời tố cáo, bị bắt quả tang, tiền mất tật mang, tài sản tuôn ra, lấy của che thân, của sông đổ biển, sa lưới pháp luật, thân tàn ma dại, cho nên phải biết: nhân quả không sai, nghiệp báo không chừa, bất cứ một ai, làm việc bất thiện! Cửa ngõ địa ngục, sẵn sàng mở rộng, đón họ đi vào! 

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Dù lên non, xuống biển, vào hang,
nghiệp báo vẫn theo con người như hình với bóng,
không ai có thể tránh được".
Hoặc sách có câu: "Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt", cũng chính là nghĩa đó vậy.
* * *
2) Sống trên thế gian này, "làm các việc thiện" không phải là điều dễ dàng. Thế nào là việc thiện? Theo sách vở thế gian, việc thiện có nghĩa là: những việc tốt, những việc lành, đáng khuyến khích, đáng quí trọng, về mặt tư cách, hợp với đạo đức, lợi mình lợi người, không hại người hại vật. Người có tâm từ thiện, sẵn sàng giúp đỡ người khác, đem lại an vui lợi ích cho mọi người, không phân biệt người thân hay kẻ thù. Làm các việc thiện mà không cầu danh, không vụ lợi, không dụng ý, không cầu báo đáp, lại càng khó khăn hơn nữa.
 
* Con người muốn có cuộc sống an lạc và hạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện, van xin khấn vái suông. Chỉ có phước báu mới có thể giúp đỡ con người được tai qua nạn khỏi, được bình yên may mắn. Phước báu có được do những việc làm phước thiện, tốt lành, lương thiện, chẳng hạn như: bố thí cúng dường, đi chùa lễ Phật, ấn tống kinh sách, cứu người giúp đời, tụng kinh niệm Phật, trì chú thiền quán, trì giới nhẫn nhịn. 

Người có phương tiện tài chánh, có thể giúp đỡ người khác bằng tiền bạc, cơm gạo, vật thực, áo quần, thuốc men, nhà cửa. Người không có khả năng vật chất, có thể giúp đỡ người khác về phương diện tinh thần, hay bằng chính công sức của mình, chẳng hạn như: làm giúp công việc, chỉ dẫn đường sá, giới thiệu việc làm, chỉ dạy nghề nghiệp. Người hiểu biết giáo lý, có thể giúp đỡ người khác, qua cơn nhiệt não, tránh khỏi khổ đau, hết điều phiền lụy, tìm được an vui, tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ giải thoát.
Hạnh nhẫn nhịn cũng là một việc thiện lành nên làm. Người biết nhẫn nhịn sẽ có cuộc sống an vui, không tranh chấp cãi vã, không thị phi hơn thua, đương nhiên tránh được nhiều chuyện phiền não khổ đau trong cuộc đời. Người ta mắng mình một tiếng, mình trả lại một miếng, thì dễ dàng quá. Người ta chửi mắng mình, hữu lý hoặc vô lý, chủ ý hoặc vô ý, mình nhịn được mà không thấy nhục, mới thực là việc khó làm. Người ta đưa lửa tới đốt, mình vẫn bình tĩnh thản nhiên, không đưa thân tâm ra đón nhận, mọi việc chắc chắn sẽ bình yên. Người ta chửi mãi, mõi miệng, chán nãn, rồi cũng im thôi! Người tu tâm dưỡng tánh, nên biết nhẫn nhịn, để tránh những hậu quả phiền toái, nhất là để giữ gìn bản tâm thanh tịnh. Ðó mới chính là mục đích cứu kính của đạo Phật.

Trì giới cũng là một việc thiện lành nên làm. Trì giới nghĩa là giữ gìn năm giới cấm: sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Con người không sát hại người khác, không sát hại sinh vật, để lợi mình hại người, để được ăn ngon khoái khẩu, bởi vì chính mình không muốn bị ai hại, không muốn bị thú dữ ăn thịt! Con người không lấy của người làm của mình, bởi vì chính mình không muốn lấy của mình làm của người. Con người không phá hoại hạnh phúc của người, bởi vì chính mình không muốn người khác phá hoại hạnh phúc của mình. Con người không nói dối, không gây chia rẽ, không tạo phiền não khổ đau cho người bằng lời nói, bởi vì chính mình không muốn người khác gây phiền não khổ đau cho mình bằng những lời nói độc ác, gian xảo. Con người không uống rượu hay các chất say, một cách quá độ, bởi vì chính mình không muốn gây thù chuốc oán, tạo tội tạo nghiệp, mà vẫn không hay, không biết gì cả. 

Trên thế gian này, người nào thực hiện được hai điều: "việc ác không làm" và "làm các việc thiện", đúng là mẫu người lý tưởng trong xã hội, mà hầu hết các tôn giáo chân chánh đều nhắm đến. Nói một cách khác, theo thế gian thông thường, đó là người có lương tâm. Người có lương tâm, tạo tác được vô lượng phước báu. Tại sao vậy? Bởi vì, người đó sẽ có cuộc sống bình yên, và góp phần tạo sự bình yên cho những người chung quanh.
Một vấn đề cần bàn qua, đó là: Lương tâm nghề nghiệp khác với mánh lới nghề nghiệp như thế nào? Người có lương tâm nghề nghiệp là người luôn luôn tìm cách thăng tiến nghề nghiệp, đem hết khả năng chuyên môn của mình, để phục vụ nhân sinh, làm hết việc chứ không phải chỉ làm hết giờ, tận tụy cứu người giúp đời, quan tâm đến lợi ích của đối tượng phục vụ, việc kiếm tiền sinh sống không phải vấn đề hàng đầu. Chẳng hạn như: Một vị bác sĩ có lương tâm, thường tận tâm chăm sóc bệnh nhân, bất kể giờ giấc, coi trọng sinh mạng con người, luôn luôn tâm niệm cố gắng chữa lành bệnh, đem lại an vui cho bệnh nhân và gia đình của họ. Một vị luật sư có lương tâm, thường tận tụy với nghiệp vụ, nghiên cứu hồ sơ kỹ lưỡng, cân nhắc các vụ kiện, với tinh thần tôn trọng chân lý, góp phần giữ gìn sự bình đẳng, công bằng trong xã hội. Trái lại, mánh lới nghề nghiệp là các mưu kế, mưu mô, mưu chước, phương cách, phương kế, thủ đoạn, thường đem lại lợi mình, bất chấp quyền lợi thân chủ, thậm chí đem bất lợi cho đối tượng phục vụ.
* * *
3) Sống trên thế gian này, "giữ tâm thanh tịnh" là điều khó khăn nhứt. Bản tâm thanh tịnh là tâm thể của mọi người, khi đã dẹp sạch hết phiền não khổ đau, không còn dấy niệm hoặc khởi bất cứ niệm nào, dù thiện hay bất thiện, dù trong giây phút, dù ở bất cứ nơi đâu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bản tâm thanh tịnh chính là cảnh giới niết bàn hiện tiền, đó là mục đích cứu kính của đạo Phật. 

Người không biết sống với bản tâm thanh tịnh hằng ngày, thời chỉ là người thế gian ở trên đời, dù là người có lương tâm hiền thiện chăng nữa, cũng vẫn còn bị sanh tử luân hồi chi phối, dĩ nhiên là cuộc sống còn phiền não khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì, tuy những người đó đã dẹp được tâm tham, tâm sân, tâm si thường tình của người thế gian, nhưng họ vẫn còn tâm tham, tâm sân, tâm si, một cách vi tế, ẩn tàng dưới hình thức tín ngưỡng. Chẳng hạn như họ không còn tâm tham ngũ dục thế gian, gồm có: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ, nhưng họ vẫn còn tham sự sung sướng ở cõi cực lạc hay thiên đàng! Họ chịu bỏ những cái nhỏ nhoi ở thế gian hiện tại, để mơ ước một đời sống sung sướng cực điểm ở đời kiếp sau, chứng tỏ tâm tham vi tế vẫn chưa thực sự dứt bỏ hẳn. Làm được việc thiện nào, họ cũng mong, cũng đòi, cũng nghĩ, cũng nói rằng: sẽ được trả công bội hậu ở cõi thiên đàng! Hoặc: sẽ được tiêu diêu nơi miền cực lạc! Còn tâm mong cầu, tức còn chấp ngã, phước báu vẫn có, nhưng rất hạn chế, theo tâm nhỏ hẹp, chỉ nghĩ đến mình, không biết đến người! Phước báu vô lượng, không thể nghĩ bàn, khi nào không còn: chấp ngã chấp pháp. 

Chẳng hạn như họ không còn tâm sân thường tình, tức là không còn khởi niệm tức giận, vì những chuyện nhỏ mọn, vì những lời nói khó nghe, vì những lời nhục mạ, vu khống, chửi bới, đối với bản thân họ. Tuy nhiên, đối với tín ngưỡng hay tôn giáo họ đang đặt niềm tin, nếu bị đụng chạm, họ sẵn sàng chiến đấu và tiêu diệt kẻ thù, mà họ cho là kẻ xấu ác, kêu gọi thánh chiến, nhân danh công lý họ đang theo! Nhiều người tu hành, muốn đạt thần thông, thành tựu phép lạ, chịu mọi khổ hạnh, nhiều năm tháng dài, chẳng hạn như là: không ăn không ngủ, nằm trên gai chông, chổng mông lên trời, treo chân lên cây, đứng trên một giò, chỉ ăn muối tiêu, đủ thứ hình tướng, quái dị kỳ khôi, những ai khuyên can, giải bày lý lẽ, họ chẳng chịu nghe, vì trái ý họ, họ liền tức giận, mắng chửi thậm tệ. Ðối với những tội phạm trong xã hội, họ vẫn còn nổi sân hận, tâm vẫn còn xáo động, vẫn còn mong muốn những kẻ xấu ác phải bị trừng trị thực nặng, chẳng khoan dung, chẳng khoan hồng, chẳng tha thứ. Tâm như vậy chưa được thanh tịnh!

Họ thường nghĩ rằng: ân đền oán trả là lẽ công bằng. Họ nghĩ đến cảnh: mặt đất nứt nẻ, rẻ ra một đường, chôn sống toàn thể, những kẻ xấu ác, hoặc cơn hồng thủy, biển máu cuồn cuộn, cuốn trôi tất cả, những người gian ác, chỉ người như họ, cho là hiền thiện, mới đáng sống đời! Họ không ngờ rằng: tâm địa như vậy, cũng là tàn ác, không khác gì cả! Thí dụ như là: Một ông đạo tiên, tu trên núi cao, có vẻ nhàn hạ, thanh thản thư thái, tiên phong đạo cốt, nhưng khi nghe được, đệ tử của mình, bị người hiếp đáp, ở dưới trần thế, nổi giận đùng đùng, xách kiếm xuống núi, trả thù lập tức! Thí dụ như là: Thượng đế cõi trời, cũng có những lúc, nổi trận lôi đình, gây nạn hồng thủy, bão tố lũ lụt, cuồng phong bệnh tật, tàn sát nhân loại, chỉ vì loài người, không nghe lời dạy, không thờ thượng đế! Thực ra đúng là: Loài người suy tâm mình ra tâm thượng đế! Tâm như vậy chưa được thanh tịnh! 

Chẳng hạn như họ không còn tâm si thường tình, không còn u mê những chuyện thế gian, không còn mê muội coi bói xem tướng, xin xăm gieo quẻ, không còn ngu si coi nước sông nước suối như nước thần nước thánh, nhưng họ vẫn chưa hiểu biết được: Họ thực sự là ai, từ đâu đến cõi này, hiện diện trên thế gian để làm gì, và sau kiếp này họ sẽ đi về đâu? Họ vẫn sống trong cơn mê, như từ muôn thuở. Cho nên, họ chỉ biết được cuộc sống đóng khung, trong một trăm năm kiếp người mà thôi. Họ không hiểu được, kiếp sống này chỉ là một phần, một đoạn ngắn trong chuổi dài sanh tử luân hồi, nhiều đời nhiều kiếp, nếu họ không khéo tìm cách, tìm đường, tìm phương pháp thoát ly. Họ không hiểu được rằng: ngoài lương tâm của người thế gian, họ còn có tâm cao cả hơn, đó là Phật Tâm, tức là tâm tánh sáng suốt, không bao giờ sanh diệt, bất cứ người nào cũng có. Khi đạt được Phật Tâm thì phiền não khổ đau lập tức dứt sạch, con người thoát ly được sanh tử luân hồi một cách mầu nhiệm vô cùng. 

Nhiều người đã biết, bản tâm thanh tịnh, nhưng chưa hoàn toàn, khi được khi không, khi lành khi dữ, khi thiện khi ác. Tại sao vậy? Bởi vì, tập khí nhiều đời, chưa được dứt sạch, nghiệp chướng vẫn còn. Ðó là những người, còn đang tu tập, đang tập chăn trâu, con trâu tâm ý, lăng xăng lộn xộn, chạy ngược chạy xuôi, chẳng lúc nào nguôi, những thứ tạp niệm, nghĩ chuyện đàng đông, chạy sang đàng tây. Những người quyết chí, tu tâm dưỡng tánh, áp dụng Chánh Pháp, vào trong cuộc sống, hằng ngày hằng giờ, hằng phút hằng giây, cố gắng hết sức, tận tâm tận tình, tận lực tận sức, cho đến ngày nào, giác ngộ giải thoát. Những người như vậy, ở trong kinh sách, gọi là hành giả, đang bước từng bước, trên đường tu tập, có khi vấp ngã, vẫn cố đứng lên, tiếp tục đi tới, tinh tấn dũng mãnh, cho đến khi nào, hoàn toàn sống với, bản tâm thanh tịnh. Lúc đó gọi là: đạt đạo chứng đạo, trọn thành Phật đạo, cũng như chúng ta, thường hay phát nguyện, trong các thời khóa, tụng kinh niệm Phật. Lúc đó, nghiệp chướng không còn, người trâu đều mất, tâm thức rỗng lặng, tịch diệt vi lạc, bất khả tư nghì, không thể nghĩ bàn. Nói một cách khác: Ngay giây phút đó, thành một vị Phật, Phật Tâm hiển lộ, một cách hoàn toàn, một cách tròn đầy, một cách viên mãn.

Phật Tâm chỉ hiển lộ khi nào tâm trí của con người hoàn toàn thanh tịnh, không chất chứa bất cứ hình ảnh nào của chúng sanh trong ba cõi sáu đường, hoàn toàn trống rỗng, tĩnh lặng tịch tịnh, không còn tham lam, không còn sân hận, không còn si mê, dù là thường tình, hay là vi tế. Mặt biển thanh bình, phẳng lặng trong sáng, bao la bát ngát, không nổi sóng to, khi có gió lớn, không gợn sóng nhỏ, khi gió thổi nhẹ, được ví như là: bản tâm thanh tịnh, luôn luôn bình tĩnh, tự tại thản nhiên, trước mọi thăng trầm, ở trên thế gian, tức là vượt qua, sóng gió cuộc đời, dù nhiều hay ít, dù nặng hay nhẹ, ở trong kinh sách, gọi là bát phong.
Thí dụ như là: Mặt gương trong sáng, không dính bụi trần, có ông đi qua, có bà đi lại, có vật trước gương, đều hiện hình ảnh, rõ ràng trong gương, không hề phân biệt, nam nữ giàu nghèo, xấu đẹp mập ốm, không hề kỳ thị, bất cứ điều gì, hoặc phương diện nào. Tuy nhiên, khi người hay vật, đã đi qua rồi, hình ảnh hoàn toàn, không còn trong gương. Tấm gương trở lại, trạng thái bình thường, như tự thuở nào, trước khi hình ảnh, hiện ra trong gương, không hề thay đổi. Cũng ví như là, bản tâm thanh tịnh, luôn luôn trống trơn, hoàn toàn tĩnh lặng, không hề chất chứa, bất cứ hình ảnh, do tâm thương ghét, do tâm lăng xăng, lao xao lộn xộn, thường ngày ghi lại, kinh sách gọi là: cái tâm phan duyên, tức là duyên theo, các cảnh trần đời, luôn luôn khởi niệm: hỉ nộ ái ố, vui buồn thương ghét.
Bản Tâm Thanh Tịnh, chính là Phật tâm.
* * *
Tóm lại, chúng ta đã hiểu biết: thế nào là Lương Tâm, thế nào là Phật Tâm. Trong mọi hoàn cảnh trên thế gian này, con người sống có lương tâm, thời thiên đàng là đây. Nhưng nếu tiến được thêm bước nữa, không chấp thiện không chấp ác, không khởi bất cứ niệm nào trong tâm, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào: thịnh hay suy, được hay thua, sướng hay khổ, vui hay buồn, khen hay chê, tức là con người vượt qua được bát phong, sống được với Phật Tâm bất sanh bất diệt, thời niết bàn là đây, thoát ly sanh tử luân hồi, hiện đời an lạc hạnh phúc, giác ngộ giải thoát. Người ngộ Phật Tâm, làm bất cứ việc gì cũng được cảm ứng của mọi người. Trong kinh sách có câu: Ðạo cảm ứng giao nan tư nghì, tức là người đạt đạo, tạo được sự cảm ứng, sự cảm thông một cách mầu nhiệm, không thể nghĩ, không thể bàn. Cũng ví như người đời làm việc gì, nếu để hết tâm trí vào việc đó, sẽ tạo được sự cảm thông của mọi người. Một bài viết, một bản nhạc được viết nên, hoặc được trình bày bởi những người có tâm hồn, sẽ tạo được sự rung động, cảm thông trong tâm của độc giả hoặc khán thính giả. 

Các tôn giáo khác, thường hay cho rằng: thiên đàng địa ngục, hai nơi khác biệt, một cách rõ ràng, người thờ thượng đế, được lên thiên đàng, không tin thượng đế, phải đọa địa ngục, đời đời kiếp kiếp, không chuyển đổi được. Trái lại, theo quan điểm của đạo Phật, thiên đàng hay địa ngục, mặc dù là hai cảnh giới khác nhau, nhưng đều chỉ là tình trạng nhứt thời của tâm thức mà thôi. Ví như biển động hay biển lặng đều chỉ là tình trạng nhứt thời của mặt biển mà thôi. Cũng ví như là có ảnh hiện ra hay không, đều chỉ là tình trạng nhứt thời của tấm gương mà thôi. Khi con người hành động, nói năng, suy nghĩ theo bốn tâm lượng rộng lớn: từ, bi, hỷ, xả, còn gọi là tứ vô lượng tâm, thì tâm thức ở trong cảnh giới thiên đàng. Khi con người hành động, nói năng, suy nghĩ theo ba tâm phiền não: tham, sân, si, còn gọi là tam độc, thì tâm thức ở trong cảnh giới địa ngục. Bởi vậy cho nên, con người sống được với lương tâm, cảnh giới thiên đàng hiện tiền, không cần chờ kiếp sau! Con người sống được với Phật Tâm, cảnh giới niết bàn hiện tiền, không nghi, không cần đợi vãng sanh cực lạc quốc! 

Tuy nhiên, người có lương tâm, làm các việc thiện, chẳng hạn như là: nuôi trẻ mồ côi, săn sóc người già, bệnh hoạn tật nguyền, thậm chí truyền nhiễm, khi gặp trở ngại, gặp sự chống đối, phỉ báng chửi mắng, ganh tị đố kỵ, gặp kẻ vô ơn, cũng sanh phiền não, cũng dễ nãn lòng, thoái chí bỏ cuộc. Trong thời Ðức Phật, còn tại thế gian, có lần đi đến, nơi một xứ kia, dân đó nghe lời, các người cầm đầu, chống đối gây rối, vì sợ dân chúng, quy y với Phật. Tôn giả A Nan, thỉnh cầu đi đến, giáo hóa nơi khác. Ðức Phật mỉm cười, từ tốn giải thích: Các người bệnh nặng, mới cần thầy thuốc, thầy thuốc lương tâm, không khi nào nói, chỉ trị bệnh nhẹ, từ chối bệnh nặng. Người còn phiền não khổ đau, tức là chưa được giác ngộ, là người có tâm bệnh, cần đến sự giáo hóa, cần phải nên tu học, để chuyển đổi tâm tánh, từ bất lương thành hiền lương, từ hiền lương lương thiện, tức là có lương tâm, chuyển biến thêm bước nữa, phát hiện và sống được với Phật Tâm, tức nhiên thoát ly được phiền não khổ đau.

Cũng trong thời Ðức Phật còn tại thế, có vị đệ tử xin phép đi đến xứ kia để giáo hóa. Ðức Phật cho biết dân ở xứ đó hung hăng lắm, họ có thể chửi mắng nhục mạ. Vị đệ tử đáp: Bạch Ðức Thế Tôn, như vậy họ cũng còn hiền thiện. Ðức Phật nói: Nếu họ đánh đập ông thì sao? Vị đệ tử đáp: Bạch Ðức Thế Tôn, như vậy họ cũng vẫn còn hiền thiện. Ðức Phật nói: Nếu họ giết hại ông thì sao? Vị đệ tử đáp: Bạch Ðức Thế Tôn, như vậy họ cũng vẫn còn hiền thiện, bởi vì họ giúp con giải thoát khỏi thân tứ đại này mà thôi. Ðó là tấm gương của vị đại đệ tử, thuyết pháp bậc nhứt, tên là Phú Lâu Na, người đã giác ngộ Phật Tâm, không còn thoái chuyển trên bước đường hoằng pháp lợi sanh.
Sách có câu:
"Chánh nhân thuyết tà pháp, tà qui chánh.
Tà nhân thuyết chánh pháp, chánh qui tà". 

Người có lương tâm, còn được gọi là chánh nhân, tức là người chân chánh, dù có dùng bất cứ phương tiện nào chăng nữa, cũng chỉ nhằm mục đích cứu kính là: đưa con người trở về với chánh đạo. Chẳng hạn như là: các bậc chân tu, đạo cao đức trọng, người có lương tâm, tỏ ngộ Phật Tâm, nhận thấy chúng sanh, phiền não khổ đau, mê tín dị đoan, thích xem đồng bóng, hay xem bói toán, cúng sao giải hạn, tiêu tai khỏi nạn, coi ngày xem tướng, xin xăm gieo quẻ, cho nên chư Tổ, dùng phương tiện đó, để đưa con người, trở về với chùa, tìm nơi yên tịnh, rồi nhân cơ hội, thuyết pháp độ sanh, khai mở tâm trí, giảng luật nhân quả, dạy thuyết vô ngã, làm sao gặt quả, vô sanh pháp nhẫn, giúp đỡ con người, sống được cuộc đời, an lạc hạnh phúc, giác ngộ chân lý, giải thoát sanh tử, chấm dứt luân hồi.
Còn người bất chánh, gọi là tà nhân, muốn sướng tấm thân, lười biếng làm việc, trốn lánh cuộc đời, biến đổi hình tướng, kiếm cơm qua ngày, dùng mọi phương tiện, dụ dẫn con người, trở về với chùa, về hùa với mình, rồi nhân cơ hội, kêu gọi quyên góp, chuyện này chuyện nọ, lăng xăng lộn xộn, lẫn lộn đạo đời, vọng tâm sai khiến, dù thuyết Chánh Pháp, cũng quá sai lầm, xa lìa chánh đạo, tạo nhiều thành kiến, khiến người u mê, lạc vào ngoại đạo. Ngoại đạo nghĩa là: ngoài tâm cầu Phật, qua các hình tướng, qua các âm thanh, không giúp được ai, tỏ ngộ chân lý, bởi vì tu mù, chẳng học giáo lý, lấy gì giảng dạy, cho hàng Phật Tử, cho nên Chánh Pháp, cũng biến thành tà, chính nghĩa đó vậy! 

Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
Nhược dĩ sắc kiến ngã.
Dĩ âm thanh cầu ngã.
Thị nhân hành tà đạo.
Bất năng kiến Như Lai.
Nghĩa là: Người nào muốn tìm Phật qua hình tướng, hay qua âm thanh, đó chính là người lầm đường lạc nẽo, là hành tà đạo, xa rời chân lý, làm sao có thể, gặp được Như Lai, tức là gặp Phật? Khi nào ánh sáng chân lý soi rọi, tâm trí bừng sáng, con người vượt qua cơn mê, mới được gọi là: hành đúng Chánh Pháp, đi đúng Chánh Ðạo. Bằng không, dù mang bất cứ hình tướng nào, tại gia hoặc tại chùa, dù tu hành bao nhiêu năm, người đó cũng vẫn chưa tỏ ngộ Phật Tâm, vẫn đang trôi lăn trong sanh tử luân hồi, tức nhiên cuộc sống vẫn còn nhiều phiền não khổ đau. 

Chúng ta cần nên ghi nhớ rằng: Ðức Thích Ca thành Phật ngay trên thế giới ta bà này, chư vị Tổ Sư tu tập theo lời Ðức Phật dạy, ngộ đạo và chứng đạo cũng ngay trên thế giới ta bà này, chư Hiền Thánh thực hành các pháp môn cũng sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc ngay trên thế gian này. Tại sao chúng ta không noi gương các Ngài, tự thắp đuốc lên mà đi, để khỏi uổng phí cuộc đời hiện tại, với những mộng tưởng nơi cõi thiên đàng hay cực lạc? Không tự đi thì không thể tới đâu được cả! Không thể nào cầu nguyện thành công, khi mình thực sự không xứng đáng! Không chịu tu học thì không thể sáng đạo được! Không chịu tu tập, thực hành, áp dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày, thì không thể nào chứng đạo được! Ai ai cũng đều biết rằng: Không chịu ăn thì không thể nào no được! 

Ðó chính là những chân lý bất di bất dịch, đáng để cho tất cả mọi người chúng ta suy ngẫm, không phân biệt tôn giáo, quốc gia, xuất xứ, giàu nghèo, sang hèn, giai cấp, học lực, kiến thức, nam phụ lão ấu, tại gia xuất gia, tín đồ tu sĩ. Không phân biệt kỳ thị gì cả mới gọi là chánh đạo, mới thực sự là bình đẳng, mới thực sự là chí công vô tư đó vậy./.




Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí 

TKN Thích Nữ Chân Liễu



Mỗi năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc. Mùa xuân trở về mang niềm vui đến cho mọi người trên thế gian, trong đó có những người con Phật. Chuông trống Bát Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa, mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương xuân cúng dường mười phương chư Phật nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết đang rơi lạnh buốt người.

Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng dẫn Phật tử đọc tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành trọn vẹn và được nhiều hạnh phúc trong năm mới.

Trong phẩm Phổ Môn, có đoạn:

“Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì thương xót hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.

Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ thế gian phiền não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác ngộ, để tùy duyên cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi diệu của Phẩm Phổ Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con người sẽ không rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ bát nhã, người phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với lục độ ba la mật, và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt châu ngọc quí giá chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên mãn.

* Lục độ ba la mật gồm có:
-       Bố thí là dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và an ủi người.
-       Trì giới là giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .
-       Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.
-       Tinh tấn là cố gắng vượt mọi thử thách, giữ tâm chí vững bền.
-       Thiền định là tâm an nhiên tự tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
-       Trí tuệ là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ, không còn si mê.

*Bát chánh đạo gồm có:
-   Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu rõ vô thường, nhân quả.
-   Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không trái với chân lý và lẽ phải.
-   Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói những lời thô ác, dối gạt.
-   Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm những việc ác nghiệp.
-   Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm những nghề bất thiện.
-   Chánh tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
-   Chánh niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
-   Chánh định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.

Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem cúng dường Ðức Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng; và cúng dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng suốt.
                                            
Cúng dường Ðức Pht Thích Ca:

Ðức Phật Thích Ca là một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói, sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm. Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị an lạc vô biên.

      Tham ái sanh ưu tư                 
      Tham ái sanh sợ hãi                
      Ai giải thoát tham ái                  
      Không ưu, không sợ hãi.
            (Kinh Pháp Cú)    

      Tâm từ thắng nóng giận
      Tâm thiện thắng ác hung
      Tâm thí thắng tham lam
      Tâm chơn thắng dối trá.
            (Kinh Pháp Cú)

Hành Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành trì lục độ ba la mật, với lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể xả thân cứu độ tha nhân, còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm hạnh Bồ Tát đạo ví như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí cúng dường Đức Phật Thích Ca thù thắng nhất.

Cúng dường Đức Pht Ða Bảo:

Ðức Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự thân, không dính mắc với chuyện đối đãi, thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn được giải thoát  nên phát tâm tu hành hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ làm tất cả công đức và phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính là tâm xả. Bồ Tát không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi khen, nghĩa là Bồ Tát có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô ngã vị tha” tuyệt đối.

Ðức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự tánh thiện lành sẵn có, nhiều người tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho nhân loại. Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân cứu giúp. Cũng có người tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô cùng. 

Bồ Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự cứu độ giải thoát về mặt tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền linh thiêng có thể ban phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và lòng tham ích kỷ của thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm là sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người đều tự có khả năng đoạn tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai mở trí tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho đời.

Hiểu rõ chân lý nhân quả, con người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và hành động; sống không ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ đợi sự huyền bí linh thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc. Cầu xin nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng tham lam và ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến đau khổ triền miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như không được những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an ổn tự tại.                
      
                                    Ða dục vi khổ
                                    Sanh tử bì lao
                                    Tùng tham dục khởi
                                    Thiểu dục vô vi
                                    Thân tâm tự tại.      
                                                (Kinh Bát Ðại Nhân Giác)
                 
Như lòng cha mẹ thương con, dạy cho con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ không tùy theo ý muốn vô minh dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại chứ không phải thương. Tình thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai, nhưng chân lý thuộc về nhân quả không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ chúng sanh là dạy làm lành tránh dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi, tạo hạnh phúc cho người sẽ nhận kết quả hạnh phúc cho mình.

Trì niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu diệt các nguyên nhân sanh đau khổ triền miên từ trước đến giờ.

. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để bỏ lòng sân hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán Âm để bỏ lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm để bỏ lòng si mê, dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích:            Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích không trói buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán Âm để bỏ lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.

Có câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:

Theo thông lệ các chùa mỗi tháng thường tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, giới tử về tham dự rất đông, có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của các người đã mất, linh vị được thờ trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng: “Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.

Tóm lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức Phật an nhiên tự tại tâm không dao động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương xót hóa độ, thu phục tâm ma, binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng nhất.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật                   
TKN Thích Nữ Chân Liễu
(Toronto, Canada)






10 MẨU CHUYỆN ĐỜI 
 Mẩu chuyện số 1
     Lão hòa thượng hỏi tiểu hòa thượng:
     - Nếu bước lên trước một bước là tử, lùi lại một bước là vong, con sẽ làm thế nào?
     Tiểu hòa thượng không hề do dự đáp:
     - Con sẽ đi sang bên cạnh.
     Bài học rút ra: Khi gặp khó khăn, đổi góc độ để suy nghĩ, có lẽ sẽ hiểu ra rằng: Bên cạnh vẫn có đường.

Mẩu chuyện số 2
     Anh chồng nhà nọ tan làm về nhà, nhìn thấy vợ đang đánh con trai, không ngó ngàng gì đến họ, đi thẳng vào nhà bếp, nhìn thấy nồi vằn thắn nghi ngút khói trên bàn, bèn múc một bát để ăn. Ăn xong nhìn thấy vợ vẫn đang đánh con trai, không nhìn nổi nữa, nói:
     - Giáo dục con cái không thể lúc nào cũng dùng bạo lực được em ạ, phải giảng giải đạo lý cho nó hiểu!
     Chị vợ nói:
     - Em mất công nấu nồi vằn thắn ngon là thế, mà nó lại tè một bãi vào, anh nói xem có điên không chứ?
     Anh chồng nghe thấy thế, tức giận nói:
     - Bà xã, em nghỉ tay chút đi, để anh đánh nó!
     Bài học rút ra: Người ngoài cuộc, đều có thể bình tĩnh, người trong cuộc, ai có thể thong dong, bình thản? Bởi vậy, đừng vội đánh giá bất cứ ai, bởi vì bạn không ở trong hoàn cảnh của họ...

Mẩu chuyện số 3
     Một người thợ mộc chặt một thân cây, làm thành ba chiếc thùng. Một thùng đựng phân, gọi là thùng phân, mọi người đều xa lánh. Một thùng đựng nước, gọi là thùng nước, mọi người đều dùng. Một thùng đựng rượu, gọi là thùng rượu, mọi người đều thưởng thức! Thùng là như nhau, bởi vì đựng đồ khác nhau mà vận mệnh thành khác nhau.
     Bài học rút ra: Cuộc đời là như vậy, có quan niệm thế nào sẽ có cuộc đời như thế, có suy nghĩ thế nào sẽ có cuộc sống như thế!
"Watch your thoughts, they become words;
watch your words, they become actions;
watch your actions, they become habits;
watch your habits, they become character;
watch your character, for it becomes your destiny."

Mẩu chuyện số 4
     Anh chồng nọ mua một con cá về nhà bảo chị vợ nấu, sau đó chạy đi xem phim, chị vợ cũng muốn đi cùng. Anh chồng nói:
      - Hai người đi xem lãng phí lắm, em cứ nấu cá đi, đợi anh xem xong quay về, vừa ăn vừa kể cho em nghe tình tiết của bộ phim.
      Anh chồng xem phim trở về nhà, không nhìn thấy cá đâu, bèn hỏi chị vợ:
      - Cá đâu rồi em?
      Chị vợ kéo ghế, ngồi xuống, cất giọng bình tĩnh:
      - Em ăn hết cá rồi, nào, lại đây, ngồi xuống em kể cho anh nghe mùi vị của cá.
      Bài học rút ra:  Bạn đối xử với tôi như thế nào, tôi sẽ đối xử lại với bạn như thế.

Mẩu chuyện số 5
     Năm thi đại học, tôi chỉ được 6 điểm, còn con trai của bạn mẹ tôi được 20 điểm, cậu ta đến học tại trường đại học trọng điểm, còn tôi chỉ có thể đi làm thuê. Chín năm sau, mẹ của cậu ta chạy đến khoe khoang với tôi và mẹ tôi rằng con trai bà ta đang đi phỏng vấn vào chức giám đốc lương tháng vài chục triệu... Còn tôi, lại đang nghĩ: Tôi có nên tuyển dụng cậu ta vào công ty của tôi không?
     Bài học rút ra: Bạn, có thể không học đại học, nhưng bạn, tuyệt đối không thể không phấn đấu.

Mẩu chuyện số 6
     Một công nhân nọ oán thán với bạn của mình rằng:
     - Việc là chúng ta làm, người được biểu dương lại là tổ trưởng, thành quả cuối cùng lại biến thành của giám đốc, thật không công bằng.
     Anh bạn mỉm cười nói rằng:
     - Nhìn đồng hồ của cậu xem, có phải là cậu sẽ nhìn kim giờ đầu tiên, sau đó đến kim phút, còn kim giây chuyển động nhiều nhất cậu lại chẳng thèm ngó ngàng không?
     Bài học rút ra: Trong cuộc sống thường ngày, cảm thấy không công bằng thì phải nỗ lực làm người đi đầu, oán trách chỉ vô dụng.

Mẩu chuyện số 7
     Thượng đế muốn thay đổi vận mệnh của một kẻ ăn xin, bèn biến thành một lão già đến làm phép cho anh ta. Thượng đế hỏi kẻ ăn xin:
     - Nếu ta cho cậu mười triệu, cậu sẽ dùng nó như thế nào?
     Kẻ ăn xin đáp:
      - Vậy thì tốt quá, tôi có thể mua một chiếc điện thoại!
     Thượng đế không hiểu, hỏi:
     - Tại sao lại muốn mua điện thoại?
     - Tôi có thể dùng điện thoại để liên lạc với các khu vực trong cùng một thành phố, nơi nào đông người, tôi có thể tới đó ăn xin.
     Thượng đế rất thất vọng, lại hỏi:
     - Nếu ta cho cậu một trăm triệu thì sao?
     Kẻ ăn xin nói:
     - Vậy thì tôi có thể mua một chiếc xe. Sau này, tôi ra ngoài ăn xin sẽ thuận tiện hơn, nơi xa đến mấy cũng có thể đến được.
     Thượng đế cảm thấy rất bi thương, lần này, ngài nói:
     - Nếu ta cho cậu một trăm tỷ thì sao?
     Kẻ ăn xin nghe xong, hai mắt phát sáng:
     - Tốt quá, tôi có thể mua tất cả những khu vực phồn hoa nhất trong thành phố này.
     Thượng đế lấy làm vui mừng. Lúc này, kẻ ăn xin bổ sung một câu:
     - Tới lúc đó, tôi có thể đuổi hết những tên ăn mày khác ở lãnh địa của tôi đi, không để họ cướp miếng cơm của tôi nữa.
     Thượng đế nghe xong, lẳng lặng bỏ đi.
     Bài học rút ra: Trên đời này, không phải là thiếu cơ hội, cũng không phải là vận mệnh trước giờ không công bằng, mà là thiếu đi cách thức tư duy đúng đắn. Tư duy của một người quyết định cuộc đời của người đó. Thay đổi cuộc đời bắt nguồn từ việc thay đổi tư duy.

Mẩu chuyện số 8
     Một người nọ đứng dưới mái hiên trú mưa, nhìn thấy Quan Âm che dù đi ngang qua. Người nọ nói:
     Quan Âm Bồ Tát, xin hãy phổ độ chúng sinh một chút, cho con đi nhờ một đoạn được không ạ?
     Quan Âm nói:
     - Ta ở trong mưa, ngươi ở dưới mái hiên, mà mái hiên lại không mưa, ngươi không cần ta phải cứu độ.
     Người nọ lập tức chạy vào màn mưa, đứng dưới mưa:
      - Hiện tại con cũng ở trong mưa rồi, có thể cho con đi nhờ không ạ?
      Quan Âm nói:
      - Ngươi ở trong mưa, ta cũng ở trong mưa, ta không bị dính mưa, bởi vì có dù. Ngươi bị dính mưa, bởi vì không có dù. Bởi vậy, không phải là ta đang cứu độ mình, mà là dù cứu độ ta. Ngươi muốn được cứu độ, không cần tìm ta, hãy đi tìm cái dù!
      Dứt lời Quan Âm bèn rời đi.
      Ngày hôm sau, người nọ lại gặp phải chuyện nan giải, bèn đến miếu cầu xin Quan Âm. Bước vào trong miếu, mới phát hiện có một người đang vái lạy Quan Âm, người đó giống Quan Âm như đúc. Người nọ hỏi:
      - Bà là Quan Âm sao ạ?
      Người kia trả lời:
      - Đúng vậy.
      Người nọ lại hỏi:
      - Vậy tại sao Quan Âm lại vái lạy chính mình?
      Quan Âm cười nói:
      - Bởi vì ta cũng gặp chuyện khó khăn, nhưng ta biết, cầu xin người khác không bằng cầu xin chính mình.
      Bài học rút ra: Phong ba bão táp của cuộc đời, phải dựa vào chính bản thân mình. Cầu xin người khác không bằng cầu xin chính mình.

Mẩu chuyện số 9.
     Anh chàng nọ:
     - Ông chủ, tắm ở đây mất bao nhiêu tiền?
     Ông chủ:
     - Nhà tắm nam 40 nghìn, nhà tắm nữ 400 nghìn.
     Anh chàng nọ:
     - Ông ăn cướp đấy à...
     Ông chủ:
     - Cậu muốn đến nhà tắm nam hay nhà tắm nữ?
     Anh chàng nọ quyết đoán đưa ra 400 nghìn. Bước vào nhà tắm nữ liếc mắt nhìn, toàn là nam. Anh em trong nhà tắm:
     - Lại một thằng nữa tới!
      Bài học rút ra: Kinh doanh trước giờ không phải là dựa vào giá cả thấp, mấu chốt là dựa theo nhu cầu của khách hàng.

Mẩu chuyện số 10
     Một người cha nói với con của mình rằng:
     - Hãy nắm chặt bàn tay của con lại, nói cho cha biết con có cảm giác gì?
     Người con nắm chặt tay:
     - Hơi mệt ạ.
     Người cha:
     - Con thử nắm chặt hơn nữa xem!
     Người con:
     - Càng mệt hơn ạ!
     Người cha:
     - Vậy con hãy buông tay ra!
     Người con thở phào một hơi:
     - Thoải mái hơn nhiều rồi ạ!
     Người cha:
     - Khi con cảm thấy mệt, nắm càng chặt sẽ càng mệt, buông nó ra, sẽ thoải mái hơn nhiều!
     Bài học rút ra: Buông tay mới nhẹ nhõm...
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT
TRÍCH CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 3
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

Không hạnh phúc nào hơn an tịnh tâm
Mục đích cứu kính của đạo Phật là giúp đỡ con người giải thoát khỏi phiền não và khổ đau, xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời.  
Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải hàng phục tâm của mình và an trụ tâm của mình, phải nương nhờ chánh pháp, 
học hiểu giáo lý và đem thực hành, áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.
Chư Phật và chư Tổ giảng giải tam tạng kinh điển cũng nhằm mục đích này mà thôi.
Chánh pháp được ví như chiếc thuyền, thường gọi là thuyền bát nhã, chở chúng ta từ bến mê, đầy dẫy những chuyện bất trắc, bất như ý, phiền não và khổ đau, qua đến bờ bên kia, được gọi là bờ giác ngộ và giải thoát.
Con người đạt được giác ngộ, giải thoát mọi khổ đau, trói buộc, dính mắc của chuyện thế gian, hàng phục được vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm, tâm liền được an trụ.  Từ đó, tuy vẫn sống tại thế gian, nhưng tâm an nhiên tự tại, bình tĩnh thản nhiên trước mọi sóng gió của cuộc đời.  Ngay đó, cảnh giới niết bàn hiện tiền. 

Không hạnh phúc nào hơn an tịnh tâm. 
Nếu như các cơ sở Phật giáo như chùa chiền, niệm Phật đường, thiền viện, trung tâm văn hóa Phật giáo, ngoài việc chăm lo phát triển tầm mức hoạt động, phát triển qui mô của cơ sở, ngoài các hình thức nghi lễ cần thiết của một tôn giáo, ngoài các phương tiện thiện xảo dĩ huyễn độ chơn giúp người sơ cơ, với tâm đại từ đại bi, tận tâm tận tình, tận sức tận lực, truyền bá chánh pháp, giảng dạy giáo lý, giúp đỡ mọi người sáng tỏ chân lý, thấu hiểu mục đích cứu kính của đạo Phật, cốt tủy của đạo Phật, thì thực là phước báu lắm thay, hạnh phúc lắm thay! 

Người Phật Tử chân chính đến các chùa chiền, hay các cơ sở Phật giáo, chỉ nên cầu học Chánh Pháp, để tự mình cứu độ chính mình, theo lời dạy của chư Phật,  chuyển hóa phiền não thành bồ đề, loạn tâm thành an tâm, tâm phan duyên thành tâm thanh tịnh, không cầu bất cứ điều gì khác, nhứt là những điều chư Phật khuyên dạy nên bỏ, chẳng hạn như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, và các sự hưởng thụ sung sướng, cùng những điều mê tín dị đoan: dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, xin xăm bói quẻ, coi ngày tốt xấu, trai đàn bạt độ.


 


TÌM TỈNH L ẶNG TRONG ĐỜI SỐNG - XUÂN BÌNH YÊN
ĐẦU NĂM ĐI CHUÀ
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ KHÔNG?  -  PHƯỚC BÁU