TK THÍCH CHÂN TUỆ
Qua cơn
mê
Trong cuộc sống hằng ngày, tất cả mọi người, từ tấm bé cho đến
khi trưởng thành, đều phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Lúc còn nhỏ,
chúng ta chỉ biết ăn cho no, ngủ cho đã, chơi cho sướng, còn mọi chuyện khác,
có người lớn lo. Lớn lên một chút, chúng ta được cha mẹ cho đến trường để học.
Ở quê nhà, trước đây, chúng ta được học lễ giáo, trước khi học chữ nghĩa. Chắc
chúng ta ai cũng còn nhớ câu: "Tiên học lễ hậu học văn". Còn ở hải
ngoại, học sinh được dạy dỗ nhiều về trí dục và thể dục, phần đức dục có phần
khiếm khuyết, có nơi hầu như không có!
Sau khi tốt nghiệp, tiểu học trung học, hoặc là đại học, cũng có
những người, kém may mắn hơn, chưa kịp học xong, tất cả mọi người, đều phải
bước qua, ngưỡng cửa cuộc đời. Có người bước được, những bước chắc chắn, vững
chải tốt đẹp, thành công tốt đẹp, vui vẻ hạnh phúc. Dưới góc cạnh cuộc đời,
trong con mắt thế gian, người ta thường cho rằng: đó là những người "có
tài".
Dưới cái nhìn trong nhà đạo, đó là những người "có
phước". Cũng có nhiều người, bước đi những bước, loạng quạng vào đời, có
khi vấp ngã, thiệt thòi thương đau, người đời gọi là "bất tài", hay
là "vô phước"!
Dù có tài hay có phước, dù bất tài hay vô phước, sau sáu mươi
năm cuộc đời, người sống lâu hơn, hơn kém trăm năm, người ta bắt đầu, cảm thấy
mệt mỏi, tuổi già sức yếu, lưng còm gối mỏi, da dẻ nhăn nheo, bệnh hoạn triền
miên, cuối cùng thì sao, kết thúc thế nào? Ít người có thời gian, có can đảm,
chịu suy nghĩ về ngày cuối cùng của cuộc đời mình. Một nấm mồ với tấm mộ bia, hay
một cái hủ đựng xương cốt với tấm biển đồng, khắc ghi tên họ, bằng cấp chức
tước, là cái phước cuối cùng, con người có thể hưởng, lúc cuối đời! Thế là xong
hết! Xong hết thiệt rồi! Một đời đã qua! Người nào cũng vậy! Ðời nào cũng vậy!
Nơi nào cũng vậy! Thánh phàm cũng vậy!
* * *
Trên thế gian này, từ ngàn xưa cho đến ngày nay, tất cả mọi
người sinh ra trên quả địa cầu này đều chấp nhận diễn tiến, tuần tự của cuộc
đời mình như vậy, sinh lão bệnh tử, không ai nghĩ là có thể làm bất cứ điều gì
khác hơn được. Cho nên, trong cuộc sống hằng ngày, con người thường đấu tranh,
giành giựt, để được phần thắng, phần lợi, phần tốt, phần hơn, phần phải về phía
mình, gia đình mình. Còn phần thua, phần thiệt, phần xấu, phần lỗ, phần quấy,
dành cho mọi người, họ có ra sao cũng mặc kệ, chẳng có gì quan trọng, chẳng có
điều gì đáng quan tâm, miễn sao, mình và gia đình mình vui sướng là được rồi!
Con người thường suy nghĩ đơn giản như vậy. Ðến khi nào chính mình gặp khổ nạn,
bất trắc, tai họa, nguy biến, phiền não, hệ lụy, con người bèn la hoảng lên,
than trời trách đất, kêu gào thảm thiết, van xin cầu khẩn, thánh thần thiên
địa, phù hộ độ trì, cứu tai cứu khổ, ban ơn ban phước, cho mình đều được, tai
qua nạn khỏi, hết chuyện xui xẻo, qua cơn khốn khó. Khi qua được rồi, cuộc đời
con người lại trôi nổi bềnh bồng, lại tiếp tục đấu tranh giành giựt, không cần
biết ngày sau mình sẽ ra sao!
Trong cuộc sống hằng ngày, để được sống còn, để được sung sướng,
để được hưởng thụ, dù quan niệm "đời hãy còn dài", hoặc suy nghĩ
"đời quá ngắn ngủi", con người sẵn sàng làm bất cứ điều gì, lợi mình
hại người, không cần đếm xỉa đến quyền lợi, danh dự, sự nghiệp, đời sống và gia
đình của người khác. Nhứt là đối với những người mình không ưa, và những người
không ưa mình, hoặc những kẻ oán thù, con người thường mang tâm niệm muốn cho
họ biến mất trên thế gian này, càng sớm càng tốt, cho khuất mắt mình. Con người
sẵn sàng, làm đủ thứ chuyện, đủ mọi thủ đoạn, mưu sâu kế hiểm, nghe lời xúi
bảo, thưa gởi kiện tụng, vu oan giá họa, để hại người đời, làm cho người khác,
thân bại danh liệt, suy sụp nguy khốn, gia đình tan nát, phiền não khổ đau, họ
mới hả dạ, họ mới vui lòng!
Lòng tham lam của con người vô cùng vô tận, được một đòi mười,
được mười đòi trăm, được trăm đòi triệu, một vốn bốn lời, nhứt bổn vạn lợi,
được voi đòi tiên, được tiên đòi tiền, được tiền đòi danh, được danh đòi thọ,
trường sinh bất tử, cải lão hoàn đồng, không muốn chết uổng.
Than ôi, tâm địa người đời, thực khó mà hiểu, thấu cho cùng
được!
Tục ngữ có câu: "Dò sông dò biển dễ dò. Ðố ai lấy thước mà
đo lòng người".
Lòng sân hận của con người vô lượng vô biên, cao ngất trời xanh,
một điều không vừa ý có thể đòi lấy mạng người, hay đòi hủy hoại danh dự và đời
sống người khác, hoặc muốn cho người khác ở tù chung thân! Người nào không chịu
giúp mình, như mình mong muốn, dù gian hay ngay, mình phải ra tay, hãm hại họ
trước, bằng đủ mọi cách, không hề từ nan, nộp đơn thưa kiện, vu khống cáo gian,
đặt điều thêm bớt, làm đủ thứ chuyện, miễn sao người đó, khốn nạn điêu linh,
tán gia bại sản, sống khổ không yên, thiệt mới hả dạ!
Lòng si mê của con người vô bờ vô bến, những chuyện hiểm nguy,
tàn ác vô nhân, cũng đều dám làm, những lời độc hại, có thể giết người, hãm hại
người khác, cũng đều dám nói, mưu sâu kế độc, tinh vi khôn lường, tàn bạo dã
man, thỏa lòng tự ái, cũng đều dám nghĩ! Khi mình gặp nạn, bởi tâm si mê, nhứt
định trả thù, mong muốn người khác, nhứt là kẻ thù, cũng phải khốn khổ, khốn
nạn như mình, hoặc khổ hơn mình, thiệt mới hài lòng!
Những hành động do tâm tham lam, những lời nói do tâm sân hận,
những ý nghĩ do tâm si mê thúc đẩy, quả thực đã tạo ra, không biết bao nhiêu,
tội lỗi nghiệp báo, khiến cho con người, xô nhau đẩy nhau, chìm đắm trong biển,
phiền não khổ đau, trầm luân sinh tử, đền trả quả báo, trong bao nhiêu kiếp,
không bao giờ dứt, không thoát ra được. Vì thế cho nên, chư Phật Bồ Tát, chư
hiền thánh Tăng, vì lòng từ bi, xuất hiện trên đời, để giúp chúng sanh, tự mình
biết rằng, đang sống trong mê, sống trong điên đảo, sống trong mộng tưởng, đến
khi lìa đời, con đường trước mặt, mờ mờ mịt mịt, không biết về đâu, đâm ra
hoảng hốt, sợ hãi khủng khiếp, thì đã quá muộn!
* Tổ Sư Qui Sơn có dạy: "Tiền lộ mang mang vị tri hà
vãng", chính là nghĩa đó vậy. Người nào thức tỉnh, giác ngộ như vậy, xa
hẳn cơn mê, điên đảo mộng tưởng, không còn tạo nghiệp, tức là đạt được, cứu
kính niết bàn, mà thập phương tam thế chư Phật hằng tâm nguyện chỉ bày cho tất
cả chúng sanh.
* * *
A. Trong cơn mê : Có thể nói rằng: hầu hết mọi người, khi được sinh ra, trên trái
đất này, đều không biết mình, từ đâu đến đây, đến để làm gì, sau khi từ giả, sẽ
đi về đâu? Con người chỉ biết, cuộc đời hiện tại, cho nên cảm thấy, mấy mươi
năm sống, ở trên thế gian, quả là dài lắm, tưởng chừng mọi việc, đều như vậy
mãi, không hề thay đổi, không có nổi trôi. Ðến khi về già, nhìn lại cuộc đời,
tưởng là giấc mơ, nhưng mà quả đúng, thực là cơn mê.
Khi gặp hoạn nạn, phiền não khổ đau, khó khăn trắc trở, con
người cầu mong, mọi chuyện xui xẻo, trôi qua cho mau. Khi gặp an ổn, dễ dàng
sung sướng, suôn sẻ vui vẻ, con người cầu mong, cuộc đời mãi mãi, cứ y như vậy.
Ðến khi những chuyện, bất trắc bất thường, bất như ý muốn, xảy đến cho mình,
người đời đau khổ, vì những mất mát, vật chất tinh thần. Chẳng hạn như là: buôn
bán thua lỗ, mất tiền mất của, mất nhà mất xe, mất việc làm tốt, đưa đến quẩn
trí, mắc bệnh tâm thần, có thể mất mạng! Chẳng hạn như là: người thân qua đời,
từ giả ra đi, qua thế giới khác, chúng ta đau khổ. Chẳng hạn như là: người thân
ngỏ ý, từ giả ra đi, lập cuộc sống khác, chúng ta phiền não, cảm thấy chới với,
không còn muốn sống, cảm thấy cuộc đời, chỉ toàn màu đen, đen thủi đen thui,
tối thủi tối thui!
Con người không biết rằng cuộc đời hiện tại này chỉ là một đoạn,
một mắc xích trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, nhiều đời nhiều kiếp. Cuộc đời
hiện tại chỉ là một dòng chuyển biến không ngừng. Sau cơn mưa, trời lại sáng.
Hết cơn bỉ cực, tới hồi thới lai. Trăng tròn rồi khuyết. Bèo hợp rồi tan. Hoa
nở rồi tan. Cuộc đời dâu biển. Không có cái gì tồn tại vĩnh viễn. Không có việc
gì kéo dài vĩnh cửu. Mọi sự mọi việc, mọi vật mọi thứ, trên thế gian này, thay
đổi đổi thay, liên tục liên miên, trong từng sát na, từng giây từng phút, từng
giờ từng ngày, từng tháng từng năm. Chẳng hạn như là: cái tấm thân này, nay
khỏe mai đau, nay trẻ mai già, nay còn mai mất. Chẳng hạn như là: chính tâm
tính mình, nay vui mai buồn, nay an mai động, nay thiện mai ác, nay ác mai
thiện, thường xuyên thay đổi. Con người không ai có khả năng, cũng như không vị
giáo chủ nào có thể, dừng được bánh xe thời gian!
Con người chỉ có thể dùng trí tuệ bát nhã, dừng bánh xe luân hồi
nghiệp báo, nếu muốn, nếu giác ngộ. Nghĩa là chỉ khi nào thức tỉnh, vượt qua
cơn mê, con người mới hiểu được: tại sao mình phải ngưng làm những việc bất
thiện, tại sao mình phải ngưng nói những lời thô ác, tại sao mình phải ngưng
suy nghĩ những điều lợi mình hại người! Còn trong cơn mê, những việc bất thiện
dễ làm hơn những điều thiện, những lời thô ác dễ nói hơn những lời êm dịu ngọt
ngào, những điều lợi mình hại người dễ suy nghĩ hơn những điều vị tha, vì ích
lợi của người khác.
Trong cơn mê, con người sẵn sàng nhảy vào căn nhà lửa, mà cứ tưởng là đang
vui hưởng ngũ dục. Căn nhà lửa chính là cái thân tứ đại của mình, đang bị lửa
thời gian thiêu đốt, từng giây từng phút, bị lửa tham lam, lửa sân hận, lửa si
mê, thiêu đốt qua từng cơn, qua từng cơn mê. Căn nhà lửa cũng chính là cái thế
giới đầy dẩy những cám dỗ, những cạm bẫy hiểm nguy vô cùng.
Con người luôn luôn mơ ước thụ hưởng ngũ dục thế gian gồm
có: tài, sắc, danh, thực, thùy. Con người luôn luôn mơ ước lắm của nhiều tiền,
trúng số độc đắc, nhà cao cửa rộng, xe cộ đắt tiền. Con người luôn luôn mơ ước
được sắc đẹp mỹ miều, trẻ mãi không già. Ai khen mình trẻ đẹp thì thích. Ai nói sự thực thì mích lòng
mình. Con người luôn luôn mơ ước được danh tiếng lẫy lừng, nhiều người biết
đến, vỗ ngực xưng tên, nhưng lại chẳng tài cán chi. Con người luôn luôn mơ ước
được ăn ngon mặc đẹp, sơn hào hải vị, không ngại giết hại, mạng sống sinh vật,
bằng đủ mọi cách, để được ăn ngon. Con người luôn luôn mơ ước được ngủ nghỉ
thoải mái, giường cao nệm tốt, đầy đủ tiện nghi.
Không được thỏa mãn ngũ dục, con người luôn luôn tìm đủ mọi
cách, để đoạt cho bằng được, bất chấp mọi thủ đoạn, dù phải hại người hại vật
cũng chẳng ngại, dù phải chà đạp người khác để hưởng lợi hay để bước lên đài
danh vọng, dù phải khen mình khinh người cũng chẳng sao, dù phải nhận người
khác xuống bùn đen cũng thấy thích thú. Chỉ vì ngũ dục mà con người tạo không
biết bao nhiêu là tội nghiệp, để rồi phải đền trả quả báo sau này, bởi vì trong
cơn mê, mình không hay biết đó thôi.
Trong cơn mê, con người tưởng rằng tấm thân tứ đại là "mình", quanh
năm suốt tháng, làm lụng vất vã, thức khuya dậy sớm, không từ bất cứ việc gì,
miễn là cung phụng cho tấm thân được no ấm, sung sướng mà thôi. Bởi vậy bất cứ
ai động đến tấm thân này, con người đều cảm thấy khổ đau, cảm thấy bị chạm tự
ái, cho nên phải trả thù, phải hại người khác, dù mười năm sau cũng chẳng muộn!
Cho đến lúc thở hơi ra, mà chẳng có khả năng hít hơi khác vào, con người mới
biết tấm thân tứ đại này phải trở về với cát bụi, phải xuống nấm mồ hay phải
vào lò thiêu. Lúc đó, con người mới nhận biết được: tấm thân tứ đại này không
phải là "mình" thì đã quá muộn màng! Biết bao nhiêu tội nghiệp đã tạo
trong đời, để rồi phải đền trả quả báo sau này, bởi vì trong cơn mê, mình không
hay biết đó thôi.
Trong cơn mê, con người tưởng rằng cái tâm suy nghĩ lăng xăng lộn xộn là
"mình". Bởi vậy khi tâm tham nổi lên, con người liền theo, bất chấp
thủ đoạn để thỏa mãn lòng tham, khi tâm sân nổi lên, con người liền theo, bất
chấp nhân nghĩa để thỏa mãn lòng sân, khi tâm si nổi lên, con người liền theo,
bất chấp lý lẽ để thỏa mãn lòng si. Cho nên con người tạo không biết bao nhiêu
là tội nghiệp, để rồi phải đền trả quả báo sau này, bởi vì trong cơn mê, mình
không hay biết đó thôi.
Con người suốt đời cứ bị cái vọng tâm lăng xăng lộn xộn sai
khiến, điều khiển, quên mất cái bản tâm thanh tịnh sẵn có từ lâu, ít ra cũng từ
khi lọt lòng mẹ. Sách có câu: "Nhân chi sơ tánh bổn thiện".
Trong cơn mê, những khi gặp hoạn nạn, con người bực tức, thù hận cuộc đời,
chán ghét người khác, sẵn sàng trả thù, sẵn sàng gây đau khổ cho bất cứ ai, mà
con người có thể làm được, để thỏa mãn tâm sân hận và si mê. Con người thường
không hiểu tại sao tai nạn xảy đến cho mình, không hiểu tại sao có người đến
chửi mắng mình, làm nhục mình, không hiểu tại sao người thân từ giả, bỏ mình ra
đi! Hằng ngàn hằng muôn câu hỏi "tại sao" những chuyện như vậy, xảy
ra thường xuyên, trong cuộc đời mình?
Con người không bao giờ chịu đáp lại bằng câu trả lời: "Lỗi
tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!". Hoặc ít ra cũng suy nghĩ được rằng:
"Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi một phần! ". Thông thường con người nghĩ
rằng tất cả đều do lỗi của người khác, lỗi của ai đâu không, tại người này thế
này, tại người kia thế khác, không có tại mình, chút xíu nào cả, thậm chí có
lúc bực quá, con người la lên: "Tại ông trời đó! ".
Con người gặp tai nạn là do kém phước báu, và do con người đã
gieo nghiệp nhân không tốt, trong kiếp trước hay kiếp này. Kiếp trước làm gì
không tốt, con người chưa có tu chứng nên không thể biết được. Kiếp này tai nạn
xảy ra, do con người có một phần bất cẩn trọng. Nếu không có nghiệp nhân xấu,
không thể có nghiệp quả tự nhiên xấu được. Hãy thử suy nghĩ: tại sao tai nạn
không xảy ra cho người này, người khác, mà lại xảy ra cho mình? Chuyện xui xẻo
không xảy ra cho người khác, tại sao lại đến với mình? Không chịu suy nghĩ,
không hiểu như vậy, con người sẽ hết sức tức giận kẻ gây ra tai nạn cho mình,
kẻ gây ra phiền toái cho mình, kẻ gây ra thương tích cho mình, kẻ đã làm khổ
làm nhục mình.
Không thấu hiểu được như vậy, con người sẽ đòi hỏi sự bồi thường
quá mức, do lòng tham lam của chính mình và lòng tham lam của những người chung
quanh, hay trong gia đình, thúc đẩy sai kiến, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi mưu
kế, hại bất cứ người nào liên can, miễn đoạt được lợi! Nghĩa là con người lại
tiếp tục tạo tội nghiệp, gây quả báo cho đời sau, cho kiếp sau, tiếp tục trầm
luân, trong lục đạo sinh tử luân hồi, không biết đến bao giờ mới dứt! Bánh xe
luân hồi nghiệp báo chỉ dừng, không tiếp tục quay, khi con người qua cơn mê mà
thôi. Tỉnh người sau cơn mê, nghĩa là con người đã giác ngộ, sau đó sẽ được
giải thoát khỏi vòng trầm luân sinh tử luân hồi vậy.
Có câu chuyện sau đây để chúng ta cùng nhau suy gẫm: Có hai vị thiền sư đi
qua sông, gặp một chiếc thuyền chài đang lưới cá. Mẻ lưới đầy ắp cá đang được
kéo lên thuyền. Có một con cá ra sức vùng vẫy, nhảy thoát khỏi lưới, rớt trở
lại sông, bơi lội tung tăng, có vẻ mừng rở, vì mới thoát nạn. Vị thiền sư thứ
nhứt nói: Con cá giỏi thiệt, chỉ phóng một cái, thoát ra khỏi lưới! Vị thiền sư
thứ hai bèn nói: Nếu con cá giỏi thiệt, sao lại để bị lưới?
Cũng vậy, con người thường bị lưới tình cảm, lưới tiền tài, lưới
danh vọng, lưới sắc đẹp, lưới ăn ngủ, nói chung là lưới ngũ dục của thế gian,
vây chặt, xiết chặt, nhưng có mấy ai muốn thoát ra khỏi đâu? Con người vẫy vùng
bơi lội trong màn lưới mê mờ đó, từ lúc còn bé thơ cho đến khi thành người lớn,
lại lấy làm thỏa thích vô cùng. Ðến khi tuổi già sức yếu, nhiều người vẫn chưa
có phước duyên thức tỉnh, vẫn tiếp tục bơi lội trong lưới, không ngại tróc vẩy
trầy vi, bám lấy tiền bạc, danh vọng địa vị, cho đến hơi thở cuối cùng! Những
người thức tỉnh, giác ngộ, đều hết sức cố gắng, nhảy một cái ra khỏi lưới,
không được thì cố gắng lần thứ hai, thứ ba, cho đến khi nào, được giải thoát
mới thôi. Lúc được giải thoát, tức là lúc thoát ra khỏi lưới, con người đã qua
được cơn mê, đến bờ giác ngộ.
Nghĩa là trong cơn mê, bất chợt lúc nào đó, thấy được cảnh trần khổ đau phiền não,
chẳng hạn như người thân qua đời, con người liền giựt mình thức tỉnh, hiểu rằng
cuộc đời vui ít khổ nhiều, không phải "đời còn dài" như mình mộng
tưởng, mình có thể ra đi bất cứ lúc nào, bất cứ cách nào, bất cứ nơi đâu. Cho
nên con người liền quay đầu hướng thiện, xa lánh những cuộc vui giả tạm của
cuộc đời, xa lánh những bạn ăn nhậu đua đòi ngày trước, xa lánh những cuộc
tranh chấp, xa lánh những chốn bụi trần, xa lánh những nơi ồn ào náo nhiệt, tìm
nơi thanh tịnh, tìm gặp thiện hữu tri thức, để gặp Chánh Pháp, để thấy Chánh
Ðạo, để bắt đầu tu tâm dưỡng tánh, để cuối cùng qua được cơn mê ngàn đời!
Con người thường hay nằm mơ. Cơn mơ có thể là các giấc mơ đẹp,
có hoa có bướm, trời cao mây xanh, gió mát hiu hiu. Cơn mơ cũng có thể là các
cơn ác mộng, các giấc mơ hãi hùng, các giấc mộng ghê sợ. Lúc đó mình sẽ ú ớ la
hét, tay chân quờ quạng, nhưng không tỉnh được. Trong cơn mơ, chuyện gì xảy ra,
mình đều cho là thực. Nếu có người bên cạnh đánh thức mình dậy, thì hay biết
mấy. Cũng vậy, hiện nay, chúng ta đang sống trong cơn mê ngàn đời, chúng ta
đang sống trong điên đảo mộng tưởng, nếu có người đánh mình thực đau, giúp mình
thức tỉnh, thì hay biết mấy. Người này có thể là người ơn, giúp đỡ mình hiểu được
đạo lý, chỉ dẫn mình đường lối tu tâm dưỡng tánh. Người này cũng có thể là kẻ
thù người oán, luôn luôn hại mình, làm mình điêu đứng, khốn khổ triền miên, hết
làm chuyện này, đến gây chuyện khác.
Trong kinh sách, hai hạng người này đều được gọi là thiện hữu
tri thức. Hạng người trước, ví như thầy lành bạn tốt, chỉ dạy, giúp đỡ mình tận
tâm, tận sức tận tình, trên mọi phương diện, được gọi là bồ tát thuận hạnh,
chuyên tạo thuận cảnh, giúp đỡ người tu học. Hạng người thứ hai, ví như giám
khảo, hạch hỏi, tra xét, cật vấn, để chứng nhận mình đang ở trình độ tu học
nào, tiến bộ ra sao, có đạt gì không, được gọi là bồ tát nghịch hạnh, chuyên
tạo nghịch cảnh, giúp đỡ người tu học tiến bộ nhanh hơn.
* * *
B. Sau cơn mê : Người đã từng ngụp lặn trong biển mê, có nhiều phước duyên, gặp
được minh sư, gặp được Chánh Pháp, ví như được phao, giựt mình thức tỉnh, cảm
thấy từ lâu mình đã phí phạm cả quãng đời trong cơn mê, bèn hạ quyết tâm, tu
tâm dưỡng tánh, tìm ra đường đạo, nếm được thiền vị giác ngộ, giải thoát khỏi sự
trói buộc của dục lạc thế gian, cuộc sống được an lạc và hạnh phúc. Sau cơn mê,
con người được tâm khinh an, không còn lo âu, sợ hãi phập phồng, thấp tha thấp
thỏm, nếm được thiền vị giải thoát, không còn tâm tham, không còn tâm sân,
không còn tâm si, xa lìa hết thảy, điên đảo mộng tưởng.
Sau cơn mê, con người không còn suy nghĩ đến chuyện trả thù, tâm
từ bi hỷ xả phát triển cao tột, con người cảm thấy chúng sanh đau khổ, cũng như
mình đau khổ, không khác. Sau cơn mê, con người không còn suy nghĩ đến lỗi lầm,
hay tội lỗi của người khác, không quan tâm đến quá khứ của người khác, luôn
luôn quán xét tự tâm, luôn luôn quan tâm đến những gì mình đang làm, đang nói,
đang nghĩ mà thôi. Người đã thức tỉnh, đã biết chuyển hóa, trở thành người tốt,
tự lâu lắm rồi, mình chẳng hay biết, còn mình thì sao, có gì tốt chăng, có gì
hay chăng, đã biết dừng nghiệp, chuyển nghiệp hay chưa?
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan".
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan".
Sau cơn mê, con người không còn ham thích những bửa ăn ngon miệng, trên sự
đau khổ của chúng sanh, không còn thích tìm giết những con vật sống, để thỏa
mãn cái khẩu vị, như lúc còn trong cơn mê. Tại sao vậy? Bởi vì trong cơn mê,
con người không hiểu được các sinh vật có thể là người thân, từ nhiều đời nhiều
kiếp của mình, vì tạo nhiều nghiệp báo trong cơn mê, cho nên phải đọa lạc vào
đường súc sinh, phải mang lông đội sừng, phải mang vi mang vẩy. Những sinh vật
đó cũng biết đau đớn, biết sợ hãi, biết chạy trốn, khi bị rượt đuổi, bắt giết
làm thịt.
Sau cơn mê, con người không còn bị tâm lăng xăng lộn xộn, tâm tham lam dụ
dẫn, tâm sân hận xui khiến, tâm si mê lôi kéo, bởi vì con người đã thức tỉnh,
đã có trí tuệ bát nhã, đã nhìn muôn sự mọi việc, đúng như thực tướng, không còn
mơ mộng viễn vông, không còn điên đảo mộng tưởng. Sau cơn mê, con người đã hiểu
tại sao mình phải tu tâm dưỡng tánh, tại sao mình phải nhẫn nhịn, tại sao mình
phải từ bi hỷ xả. Bởi vì không có gì quí hơn sự bình yên trong tâm hồn! Sống an
lạc và hạnh phúc, được giác ngộ và giải thoát là mục đích cứu kính của người
theo đạo Phật, mặc dù trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn phải tiếp xúc với
cuộc đời, vẫn gặp những điều bất trắc, những cảnh ngộ bất như ý. Qua cơn mê,
mọi việc không còn thành vấn đề!
Trong kinh A Hàm, đức Phật có dạy "Thập nhị nhân
duyên", gồm có mười hai nhân duyên phát sinh muôn sự muôn việc, đó là: vô
minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, tử. Thập nhị
nhân duyên là giáo lý giảng dạy nguyên nhân nào sự việc này sinh khởi, sự việc
này sinh khởi đều có quan hệ với sự việc đã sinh khởi trước đó. Trong thập nhị
nhân duyên, cơn mê của con người, từ muôn kiếp trước, gọi là "vô
minh". Vô minh là nguyên nhân của mọi phiền não khổ đau, dẫn dắt chúng
sanh trôi lăn trong lục đạo luân hồi. Vô minh là không sáng suốt, là si mê lầm
lạc, là không nhận được thực tướng của cuộc đời, là điên đảo mộng tưởng, là
chấp ngã và chấp pháp. Cho nên, muốn giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi,
chấm dứt phiền não khổ đau, con người phải phá cho bằng được màn vô minh đen
tối, tức là phải "qua cơn mê", phải thức tỉnh, bằng cách thắp
sáng ngọn đuốc trí tuệ bát nhã của mình qua Chánh Pháp.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp".
Thắp lên với Chánh Pháp".
* * *
Tóm lại, một khi qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng, xa mộng tưởng điên
đảo, được cứu kính niết bàn, ta lại về bên nhau. Ngày gió mưa không còn, nên
đường đời thật dài, ta mặc tình rong chơi. Tỉnh người sau cơn mê, ta thấy đời
an lành, thấy mọi người hiền từ, nên đời đẹp như tranh. Ta sẽ ươm thật nhiều,
trái yêu thương ngọt ngào, hái đem cho mọi người.
Nghĩa là qua được cơn mê, chúng ta sẽ xa lìa được cuộc sống bềnh
bồng, điên đảo mộng tưởng, chúng ta không còn thấy mình tốt hơn người, không
còn thấy mình và người khác nhau. Trái lại, sau khi lòng lắng xuống, không còn
khổ đau phiền não, không còn tức giận hận thù, không còn đố kỵ ganh tị, không
còn thương ghét giận hờn, không còn quay lưng ngoảnh mặt, chúng ta thấy được
mọi người đều có "bản tâm thanh tịnh" như nhau, thấy được "tâm
cảnh nhất như", không khác.
Do đó, chúng ta đạt được cảnh giới cứu kính Niết bàn, an lạc
hạnh phúc, ngay cuộc sống hiện tại, chúng ta lại có thể về bên nhau, sống chung
nhau theo tinh thần lục hòa. Tại sao vậy? Bởi vì, tỉnh người sau cơn mê, chúng
ta thấy được vạn vật vũ trụ đồng nhất thể, tuổi thọ của con người không hạn chế
trong cuộc đời này, không phải chỉ có trăm năm mà thôi. Sống được với bản tâm
thanh tịnh, không còn chịu ảnh hưởng của thời gian và không gian, chúng ta mới
thực sự thấy đường đời không giới hạn, chúng ta mặc tình rong chơi, tiêu dao
tháng ngày, an nhàn tự tại, ở khắp mọi nơi, không bị ràng buộc, không còn phiền
não, chẳng còn khổ đau, quên hết sự đời, an hưởng cảnh giới niết bàn. Cho nên
chúng ta thấy cuộc đời hết sức an lành.
Chúng ta nhìn mọi người với cặp mắt từ bi, cho nên thấy mọi
người hiền từ. Chúng ta nhìn thế gian với cặp mắt lạc quan, cho nên thấy đời
đẹp như tranh. Từ đó, cuộc sống của chúng ta sẽ an lạc và hạnh phúc ngay hiện
đời, chúng ta sẽ sống với tâm lượng từ bi hỷ xả, đem yêu thương đến cho mọi
người chung quanh, chúng ta sẽ sống đời như lời Ðức Phật dạy, niết bàn cực lạc
chính là đây, không còn chờ đến sau khi từ giả cuộc đời, mới được niết bàn cầu
nguyện, phân ưu mộng tưởng, trên mặt báo chí! Tại sao vậy? Bởi vì khi còn sống,
chưa biết được niết bàn thế nào, thì làm sao, sau khi chết, được niết bàn?
Muốn đạt được cảnh giới thanh tịnh của chư Phật chứng được, con
người phải thật cố gắng, kiên tâm trì chí, dũng kiệt mạnh mẽ, cắt đứt mọi cám
dỗ của cuộc đời.
Muốn đạt được an lạc và hạnh phúc trong cuộc đời hiện tại trên
thế gian, trong lúc chúng ta vẫn phải đối diện với muôn ngàn khó khăn, phải đối
phó với mọi hoàn cảnh bất trắc, bất như ý chung quanh, chúng ta phải sống thực
với chính mình, với chính bản thân mình, với tâm lượng khiêm tốn, thực hành
hạnh từ bi hỷ xả, và cố gắng giúp đỡ tất cả chúng sanh, sống chung quanh mình,
đều được thức tỉnh, giác ngộ, quay về với chánh đạo.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Ðức Phật có dạy: "Bồ đề tát đõa y
bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn". Nghĩa là chúng ta muốn
phát tâm tu tập, để thoát khỏi phiền não khổ đau, như các vị bồ tát đã làm, thì
chúng ta phải nương theo trí tuệ bát nhã ba la mật, tức là trí tuệ nhìn thấy
thực tướng của các pháp trên thế gian, nói cách khác là trí tuệ giúp chúng ta
qua được cơn mê, qua được bể khổ nguồn mê, sớm đến bờ giác ngộ.
Ðược trí tuệ bát nhã ba la mật, chúng ta nhìn cuộc đời đúng như
thực, không còn si mê lầm lạc, không còn điên đảo mộng tưởng, cho nên tâm không
còn quái ngại, không còn việc gì khủng bố được, không còn chuyện gì làm cho sợ
hãi. Từ đó chúng ta xa lìa điên đảo mộng tưởng, xa lìa cơn mê nhiều đời nhiều
kiếp, cũng như mây đen tan biến thì trăng sáng hiện tiền. Lúc đó, chúng ta
hiểu được, thấy được, ngộ được, đạt được, chứng được, sống được trong cảnh giới
niết bàn cực lạc, như lời chư Phật dạy, ngay tại thế gian này vậy./.
CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ ĐẠO PHẬT
Những ngày lễ - Tết, trong tấp nập người
đi lễ chùa thì phổ biến nhất vẫn là khấn nguyện, cầu xin chư Phật ban ơn, tăng
phúc, bớt họa v.v... Sở dĩ có hiện tượng đó là do không ít người có nhận thức
lệch lạc về Đức Phật, về chức năng, nhiệm vụ của chùa chiền.
Trước Tam bảo, người
ta lạy lục cầu xin: xin cho tai qua nạn khỏi; xin cho giàu sang phú quý; xin
tiền tài, xin địa vị… Họ mang theo rất nhiều lễ vật, sì sụp khấn vái, cầu xin.
Khắp nơi trong khuôn viên chùa chỗ nào cũng thấy cắm nhang đèn, tiền rải khắp
nơi; lò hóa vàng rừng rực cháy mang theo muôn vàn lãng phí. Cảnh chen chúc,
giẫm đạp nhau ở cửa thiền để được làm lễ cầu an, giải hạn trong dịp đầu năm
không còn là chuyện lạ.
Trong tình hình đó, đáng lẽ đội ngũ Tăng
Ni ở các ngôi chùa cần phải hướng dẫn, chấn chỉnh lại nhận thức sai lệch của
người dân, của Phật tử. Tuy nhiên, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng,
mà nhiều ngôi chùa, nhiều nhà sư lại dễ dãi chấp nhận việc người dân, Phật tử
đến chùa chỉ để cầu xin. Hình ảnh một số nhà sư cúng sao giải hạn, gieo quẻ âm
dương, chọn ngày lành tháng tốt đã và đang làm cho đạo Phật dần dần đậm màu sắc
mê tín,
đạo Phật trở thành thần quyền ban phước giáng hoạ theo lời cầu xin của nhân
gian. Lòng tham con người càng lúc càng tăng, còn đạo tý thì không học cũng
chẳng cần hiểu.
Để trả lại thanh tịnh cho chùa chiền, giúp
chúng sinh nhận thức rõ về giáo lý, khuyến tu về nội tâm là
trách nhiệm của hàng xuất gia và phương pháp tìm an lạc ngay trong cuộc
sống, cần có một sự đổi thay căn bản sinh hoạt học tập giáo lý của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi xã hội nhận biết đạo Phật
thông qua hoạt động của đội ngũ Tăng Ni và Phật tử; cuộc sống
thường ngày của Phật tử là tấm gương phản chiếu tư tưởng Phật giáo đến cộng
đồng.
Chùa là nơi hoằng pháp. Vậy sư trụ trì và
đội ngũ Tăng Ni phải là những người thầy trong lĩnh vực truyền bá giáo lý của
Phật. Những tủ kinh sách Phật giáo phải được trưng bày ở nơi dễ thấy, dễ lấy.
Sách về đạo Phật cần được đổi mới, được dịch và viết ra theo ngôn ngữ đương
đại, dễ hiểu, dễ thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân. Vào những ngày lễ - Tết,
các Tăng Ni phải thuyết giảng giáo pháp hướng dẫn tu học cho những người muốn
đến chùa học hỏi Chánh pháp. Chứ đừng quá chú tâm vào những hình thức
lễ lộc của nhân gian, ăn uống hao phí, lân trống văn nghệ vui chơi ồn ào náo
nhiệt và quá nặng nề về những hình thức mê tín dị đoan.
Đức Phật nói: “Tin Ta mà không hiểu Ta
là phỉ báng Ta”. Việc xem Đức Phật như một vị thần chuyên ban ơn,
giáng họa; coi chùa chiền như một địa điểm cầu xin phước lộc vui chơi, đang làm cho đạo Phật
trở nên xa lạ với tinh thần thanh tịnh, tu tâm dưỡng tánh do chính Đức Phật đã chứng ngộ chỉ dạy để thoát ra khỏi lục
đạo luân hồi .
Thiết nghĩ, chư vị Tăng Ni, Phật tử hãy cùng chung tay, góp sức trả lại giá trị
đích thực cho ngôi chùa, trả lại sự tôn kính cho Đức Phật mà bao đời nay người con Phật ta hằng kính ngưỡng, vâng làm .
Chúng sanh lăn lộn đầu
thai trong lục đạo sanh tử luân hồi do nhiều căn bịnh từ vô minh ngàn kiếp,
gồm: tham ái, dục vọng, chấp thủ, đoạn kiến, thường kiến, ngã mạn. Sự chân thật
của Thật Tánh là người tu theo con đường Đức Phật dạy, đạt được tâm thanh tịnh,
đầy đủ trí tuệ, có thể chuyển phàm phu trở thành thánh nhân hay bồ tát.
Đức Phật Thích Ca
chứng đắc tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận minh. Mắt trí tuệ
của Ngài thấy được tam thiên đại thiên thế giới, thấy nhân quả trong nhiều đời
nhiều kiếp, phá vô minh phiền não chấp ngã chấp pháp không còn sanh tử, ra khỏi
lục đạo luân hồi. Lục đạo là sáu cảnh giới luân hồi mà con người phải đầu thai
chuyển kiếp, nếu chưa sạch hết nghiệp chướng, gồm: Thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
Cõi Thiên:
Sanh về cõi thiên, nơi cực lạc thế gian, hưởng phước báo thiện căn nhiều đời,
được giàu sang, đủ ăn đủ mặc, có người hầu hạ, nhà cao cửa rộng, an lạc hạnh
phúc.
Cõi Nhơn:
Sanh vào cõi người, giàu có nghèo có, ưa thích làm việc phước thiện, cũng có
khi tạo nghiệp bất thiện, hưởng phước báo và cũng chịu quả báo đau khổ, sanh,
lão, bịnh tử.
Cõi A Tu La:
Sanh vào nhà quyền quí, hưởng phước tốt của gia đình, có danh tiếng, có tiền
của, tánh tình nóng nảy và kiêu mạn, thích bạo động, có trí thức đời và thông
minh, không khéo dễ tạo nghiệp ác.
Cõi Địa Ngục: Sanh vào cõi đau khổ, vì nghiệp ác hại người sâu nặng, bị hành
hạ tra tấn ngày đêm, sống không được chết không xong, đau khổ vô cùng.
Cõi Ngạ Quỉ:
Sanh vào nơi bất tịnh, vì nghiệp bỏn sẻn, thường bị hãm hại, không chỗ dung
thân, luôn đói khát, không có sức tự kiếm ăn, sống nhờ vào lòng tốt của mọi
người.
Cõi Súc Sanh: Sanh vào nơi cầm thú, vì nghiệp sát quá nặng mà đọa vào cõi
nầy, lúc nào cũng sợ bị giết, sống nơi ẩm thấp rừng sâu nước độc, mang lông đội
sừng suốt kiếp.
Phật dạy: Rời xa kiến chấp, an lạc niết bàn, hàng phục
ma chướng, chứng đắc trí tuệ sáng suốt, thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, vượt
khỏi giả danh, không còn chỗ thọ của bản ngã, không bị ràng buộc các pháp ác
của tà ma ngoại đạo. Đó là chỗ nhận biết của người trí tuệ và là chỗ cư trú các
bậc thánh, các bồ tát, các bậc giác ngộ.
(Kinh Duy Ma Cật)
Ý Nghĩa Dâng Hoa Cúng Phật
Dâng hoa cúng Phật mang ý nghĩa dâng cúng những
điều thiện lành, tốt đẹp, thơm tho, chúng ta làm được trong cuộc sống hằng
ngày, theo lời chư Phật dạy. Chẳng hạn như chúng ta làm được việc thiện nào trong
ngày, chúng ta dừng được việc ác nào trong ngày, đó là những bó hoa tươi thắm
đem dâng cúng chư Phật.
Việc dâng hoa cúng Phật là một hành động thành kính
ngưỡng mộ, bày tỏ tâm biết ơn sự chuyển hóa vô thượng của giáo pháp, mặc dù giá
trị vật chất không đáng quan tâm. Tiếp theo việc dâng hoa cúng Phật là lời tán
tụng và tâm người Phật tử hồi tưởng lại đời sống cao thượng, phẩm hạnh vi diệu
của đức Phật, quyết cố gắng noi theo, không cầu khẩn van xin gì cả.
Đức Phật là một bậc sáng suốt, đã chấm dứt sự phiền
não và khổ đau, một đấng hoàn hảo, chứng được trí tuệ bát nhã và giác ngộ
chân lý vô thượng, đáng được tôn kính và đảnh lễ. Người Phật tử quyết tâm noi theo chánh đạo, đưa đến chánh kiến và chánh
tín, để hiện tại đạt an lạc hạnh phúc, mai sau được giác ngộ giải thoát.
Ý Nghĩa Lễ Cúng Đèn
Trong hình thức nghi lễ, khi cúng dường một ngọn
đèn lên đức Phật, không nên nghĩ hay cho rằng mình đang làm một ân huệ và cầu
khẩn van xin phước báo. Trái lại, nên ý thức một cách trọn vẹn rằng: chúng ta
đang nâng cao nguồn sáng trí tuệ, mà chúng ta tiếp nhận từ đức Phật. Nguồn ánh
sáng này xua đuổi bóng đêm trong tâm thức chúng ta, hướng dẫn chúng ta và tất
cả chúng sinh tìm thấy con đường đi đến giác ngộ.
Theo cách này, đối với người thực hiện nghi lễ, ngọn
đèn cúng dường lên đức Phật là phương tiện để quán niệm về cái ánh sáng giác
ngộ đã và đang chiếu sáng trong mỗi người chúng ta từ thời vô thủy, và ánh sáng
đó thường bị những bức tường do tự ngã che khuất trong bóng tối. Mục đích của sự tu tập chính là
để dẹp trừ cái bản ngã đó. []
Ý Nghĩa Dâng
Hương Cúng Phật
Theo kinh sách, khi làm lễ dâng hương cúng
Phật có 5 ý nghĩa, gọi là Ngũ Phần Hương, gồm có:
1.
Giới hương,
2.
Định hương,
3.
Tuệ hương,
4.
Giải thoát hương, và
5.
Giải thoát tri kiến hương.
Đức Lục Tổ Huệ Năng giải thích trong Kinh Pháp Bảo Đàn như sau:
1. GIỚI HƯƠNG: Tức trong tự tâm chẳng quấy, chẳng ác, chẳng ganh tỵ, chẳng tham sân,
chẳng cướp hại, gọi là GIỚI HƯƠNG.
2. ÐỊNH HƯƠNG: Thấy những cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng
loạn, gọi là ÐỊNH HƯƠNG.
3. TUỆ HƯƠNG: Tự tâm vô ngại, thường dùng trí tuệ chiếu soi tự tánh, chẳng tạo điều
ác, dù tu nhiều thiện mà tâm chẳng chấp trước, kính trên mến dưới, thương xót
kẻ cô đơn nghèo nàn, gọi là TUỆ HƯƠNG.
4. GIẢI THOÁT HƯƠNG:
Tự tâm chẳng phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại vô
ngại, gọi là GIẢI THOÁT HƯƠNG.
5. GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG: Tự tâm đã chẳng phan duyên
thiện ác, chớ nên trầm không trệ tịch, phải tu học pháp tối thượng thừa, nhận
tự bản tâm, thông đạt lý Phật, hạ mình để tiếp người, vô nhơn vô ngã, thẳng đến
Bồ đề, chơn tánh chẳng đổi, gọi là GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG.
Thiện tri thức ! Năm thứ hương này mỗi người tự huân tập trong tâm, chớ tìm bên ngoài. []
Dâng
cúng Phật
hương,
đăng, hoa, quả, thủy.
Trong các thứ
trên,
cúng dường pháp
là hơn hết.
Ý Nghĩa: Đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát khởi tín tâm, tin tưởng sâu
sắc, hiểu biết rõ ràng, thành tâm dâng cúng: những điều tốt đẹp, những thành
tựu cao quí nhứt, trên bước đường tu học
(học hỏi chánh pháp và tu sửa thân tâm).
Không tu tập và không làm như thế, dù thành tâm đến đâu, dâng hương cầu
nguyện nào có được gì? Tại sao vậy? - Bởi cầu khẩn van xin mà được như ý, người
ta đền ơn đáp lễ, đốt hương cả bó, cháy luôn ngôi chùa!
Dâng
cúng hương mang ý nghĩa dâng cúng những hương thơm kết tụ do
việc giữ gìn giới luật, những hương
thơm kết tụ do việc luôn giữ tâm thiền định, những hương thơm kết tụ do
việc phát triển trí tuệ, những hương
thơm kết tụ do việc tu hạnh giải thoát
và những hương thơm kết tụ do việc giải thoát sự
hiểu biết phiền lụy của thế gian.
Tóm lại dâng hương cúng Phật gồm có: 1. Giới hương 2. Định
hương 3. Tuệ hương 4. Giải thoát hương và 5. Giải thoát tri
kiến hương. []
Ý
Nghĩa Chuyện Bà Lão Cúng Đèn Thời Đức Phật
Thời đức Phật còn tại thế, có một bà lão nghèo khổ, ăn xin độ nhật. Bà lão ăn xin vì hoàn cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn, nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà lão vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quí kính đức Phật.
Một hôm, có lễ hội cúng dường Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế, cho đến những người có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tịnh xá Kỳ Viên.
Lúc nầy, bà lão nghĩ rằng: Một đời mình đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không bao giờ được gặp Ngài. Nghĩ như thế, bà lão vừa lần hồi xin ăn dọc đường, vừa đến gần Kỳ Viên tịnh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ.
Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy, ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng người nêm cứng những con đường về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn của hàng thứ dân dâng cúng. Đủ thứ loại ngọn đèn sáng trưng, màu sắc chói cả mắt người qua lại.
Bà lão tự nghĩ mình chỉ có khả năng cúng dường Phật Pháp Tăng một ngọn đèn nhỏ nhoi, không cầu gì cho riêng mình cả, nhưng tâm nguyện rằng: Ngài là đấng Thế Tôn, là bậc đại từ đại bi, có thể đem Pháp cam lồ giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Hạnh nguyện cao thượng với bồ đề tâm “vì người không vì mình” của bà lão, được đức Phật chứng tri.
Thế rồi, bà lão dốc hết cả gia tài chỉ được 2 xu, để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà lão hướng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về đức Phật đảnh lễ, mong đức Phật chứng tri cho tấm lòng thanh tịnh và thành kính đã phát nguyện.
Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lượt cạn dầu rồi tắt ngúm. Chỉ riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin vẫn còn cháy sáng. Hiện tượng đó thật kỳ lạ, nên mọi nguời truyền nhau đi xem, ai cũng cho rằng đó là điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Một thí chủ giàu sang đến thưa hỏi đức Phật: Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn cháy sáng?
Đức Phật dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ, tuy nghèo khó, nhưng tâm kính trọng Phật Pháp Tăng và hạnh nguyện cao thượng vượt bực mà cúng đèn.
Tâm của bà lão chỉ cầu mong ánh sáng từ bi và trí tuệ soi sáng đến muôn loài. Vì tâm thành hiền lương thanh tịnh cao tột đó, nên ngọn đèn Phật tâm Phật tánh hiển hiện của bà lão vẫn còn sáng mãi không tắt. Những ngọn đèn khác tuy sang trọng hơn, lớn hơn, nhưng do tâm chúng sanh phàm phu ích kỷ, vì tư lợi mà dâng cúng, và lòng tham mong cầu riêng cho bản thân. Tất cả chỉ cháy sáng trong một thời gian ngắn rồi cũng đều lịm tắt.
Thời đức Phật còn tại thế, có một bà lão nghèo khổ, ăn xin độ nhật. Bà lão ăn xin vì hoàn cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn, nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà lão vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quí kính đức Phật.
Một hôm, có lễ hội cúng dường Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế, cho đến những người có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tịnh xá Kỳ Viên.
Lúc nầy, bà lão nghĩ rằng: Một đời mình đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không bao giờ được gặp Ngài. Nghĩ như thế, bà lão vừa lần hồi xin ăn dọc đường, vừa đến gần Kỳ Viên tịnh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ.
Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy, ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng người nêm cứng những con đường về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn của hàng thứ dân dâng cúng. Đủ thứ loại ngọn đèn sáng trưng, màu sắc chói cả mắt người qua lại.
Bà lão tự nghĩ mình chỉ có khả năng cúng dường Phật Pháp Tăng một ngọn đèn nhỏ nhoi, không cầu gì cho riêng mình cả, nhưng tâm nguyện rằng: Ngài là đấng Thế Tôn, là bậc đại từ đại bi, có thể đem Pháp cam lồ giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Hạnh nguyện cao thượng với bồ đề tâm “vì người không vì mình” của bà lão, được đức Phật chứng tri.
Thế rồi, bà lão dốc hết cả gia tài chỉ được 2 xu, để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà lão hướng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về đức Phật đảnh lễ, mong đức Phật chứng tri cho tấm lòng thanh tịnh và thành kính đã phát nguyện.
Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lượt cạn dầu rồi tắt ngúm. Chỉ riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin vẫn còn cháy sáng. Hiện tượng đó thật kỳ lạ, nên mọi nguời truyền nhau đi xem, ai cũng cho rằng đó là điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Một thí chủ giàu sang đến thưa hỏi đức Phật: Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn cháy sáng?
Đức Phật dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ, tuy nghèo khó, nhưng tâm kính trọng Phật Pháp Tăng và hạnh nguyện cao thượng vượt bực mà cúng đèn.
Tâm của bà lão chỉ cầu mong ánh sáng từ bi và trí tuệ soi sáng đến muôn loài. Vì tâm thành hiền lương thanh tịnh cao tột đó, nên ngọn đèn Phật tâm Phật tánh hiển hiện của bà lão vẫn còn sáng mãi không tắt. Những ngọn đèn khác tuy sang trọng hơn, lớn hơn, nhưng do tâm chúng sanh phàm phu ích kỷ, vì tư lợi mà dâng cúng, và lòng tham mong cầu riêng cho bản thân. Tất cả chỉ cháy sáng trong một thời gian ngắn rồi cũng đều lịm tắt.
Suy Ngẫm: Có hai loại ngọn đèn
1. Ngọn đèn trí tuệ: tượng trưng "Phật tâm Phật
tánh" sáng suốt của mỗi con người ai cũng có sẵn, bình đẳng, không có
biệt trừ. Chỉ có phàm phu mới có tâm phân biệt giai cấp, sang hèn, hơn
thua, so đo, nên sanh phiền não. Ý nghĩa cúng đèn với bản tâm thanh tịnh, mồi
ánh sáng trí tuệ từ ngọn đuốc Phật Pháp. Ngoài ra, không cầu xin gì riêng cho
cái tôi (bản ngã), không đòi hỏi Chư Phật phải ban cho mình gì cả và cũng không
tính toán hơn thua danh lợi. Đó mới là tấm lòng cúng dường Phật Pháp trong sáng
thanh tịnh, vì người không vì riêng cá nhân mình, gia đình mình (gọi là cúng
dường ba la mật), cho nên tương ưng với tâm của Chư Phật và Chư Bồ tát. Ngọn
đèn công đức, đầy đủ từ bi trí tuệ đó cháy mãi với thời gian.
2. Ngọn đèn thế tục: tượng trưng sự giàu có phô trương, mặc
dù nhiều dầu, sang trọng, mắc tiền, nhưng có lúc cũng phải cạn và lịm tắt dần.
Ví như của cải sang giàu, phước báu, nhưng khi hưởng hết, hoặc cuối cuộc đời
rồi cũng phải buông xuôi, mất đi tất cả theo luật vô thường. Con người thế gian
khi cúng đèn với tâm cầu xin hưởng phước, đòi hỏi nhiều việc từ nơi Chư Phật,
Chư Bồ tát, cầu mong được giàu sang an nhàn (cúng dường cầu danh lợi) cho riêng
bản thân, thì chỉ được phước hữu lậu trong thời gian ngắn ngủi. Đèn thế tục còn
lắm phiền não, tham lam và ích kỷ thì không thể cháy sáng lâu dài được. Đó là
những phước báo rất ít ỏi khiến cho con người trôi lăn mãi trong luân hồi lục
đạo.
Người tu học đạo phải trải lòng cao thượng rộng lớn, Từ Bi Hỷ Xả, trong
khi cúng dường hoa, trái, nhang, đèn, nên phát tâm cầu giác ngộ Chánh Pháp hiện
đời cho mình và cho tất cả chúng sanh, đều thành Phật đạo. Tu tâm sửa tánh,
không khinh người, giúp đời hành thiện, tha thứ bao dung. Đó là hạnh nguyện
đúng chánh pháp của người phát tâm tu theo Phật, hành Bồ Tát đạo. [ ]
CHUYỆN TRONG
CHÙA
- Tôi có nghe một vị sư giảng: khi cúng đèn dâng lên
Phật phải thành tâm, thì cầu gì cũng được. Không biết điều này có
đúng chánh pháp không?
- Khi chúng ta dâng cúng hương,
đăng, hoa, quả, thủy, tất cả đều có ý nghĩa tượng trưng dâng cúng sự phát
tâm tu tập theo lời Phật dạy, dâng cúng thành tựu trong quá trình tinh tấn tu
tập, chuyển hóa tâm mê mờ thành trí sáng suốt.
- Dâng cúng mà cầu gì cũng được, đó là
tà pháp. Người giảng điều đó là tà sư, mê hoặc và dụ dẫn chúng lạc vào tà đạo.
- Chư Phật và chư Bồ tát đâu cần thụ
dụng các thứ vật chất chúng ta dâng cúng. Dâng cúng một ngọn đèn chưa tới 25
xu, dù thành tâm, mà cầu gì cũng được, đó là tâm tham lam
hết biết! []
BAN
BIÊN TẬP PHẬT HỌC TỊNH QUANG
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
ĐI CHÙA BƯỚC ĐẦU HÀNH TRÌNH TÂM LINH
ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
MƯỜI NGHIỆP LÀNH
CHỮ DUYÊN TRONG ĐẠO PHẬT
SỐNG TỬ TẾ VỚI NHAU
NGUỒN GỐC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
GIẢI THOÁT TRONG PHẬT GIÁO
http://lotus-lantern-canada.blogspot.ca/2014/04/giai-thoat-trong-phat-giao.html