Dâng tặng thân xác cho đời
Chúng ta thường hay lo lắng khi sắp lâm chung, hiến tặng thân xác có
thể mất đi chánh niệm, không còn nhất tâm bất loạn; thậm chí sẽ đọa
lạc nơi ba đường ác đạo. Đây là suy nghĩ của hầu hết chúng sinh nhưng những
cách suy luận này không có căn cứ và không dựa trên nguyên tắc nhân quả
nào.
Khi còn
sống trên cuộc đời này, mỗi người trong chúng ta luôn cố gắng làm việc thật
chăm chỉ để có một cuộc sống đầy đủ và sung túc. Ở mỗi thời điểm ta lại có
những nhu cầu khác nhau, nếu như trước đây là ăn ngon mặc ấm thì ngày nay nhu
cầu tăng lên phải là ăn ngon mặc đẹp.
Con người
cứ sống mãi trong vòng luẩn quẩn cơm áo gạo tiền và tìm kiếm những thú vui để
đáp ứng nhu cầu của cá nhân. Thời gian cứ mãi trôi rồi tới một ngày chợt nhận
ra rằng mình không thể trẻ mãi và tuổi già bắt đầu gõ cửa từng người.
Lúc này
chúng ta cảm thấy lo lắng, bất an và nghĩ về mọi việc sau đó sẽ như thế nào.
Một vài suy nghĩ xuất hiện trong đó có việc hiến tặng thân xác cho giới khoa
học nghiên cứu, hay tặng bộ phận thân thể cho người sống.
Chúng ta
thường hay lo lắng khi sắp lâm chung, hiến tặng thân xác có thể mất đi
chánh niệm, không còn nhất tâm bất loạn; thậm chí sẽ đọa lạc nơi ba
đường ác đạo. Đây là suy nghĩ của hầu hết chúng sinh nhưng những cách suy luận
này không có căn cứ và không dựa trên nguyên tắc nhân quả nào.
Họ cho
rằng người hiến tặng thân xác nhất định sẽ khởi tâm sân hận nghiêm
trọng rồi đọa lạc. Song nguyên lý thọ báo của Phật giáo là khởi hoặc
tạo nghiệp mới bị đọa lạc; việc tôi hiến tặng thân xác không tạo ác
nghiệp mà ngược lại tạo ra thiện nghiệp, thì tại sao tôi bị đọa lạc?
Trên thực
tế có thể nói thân thể thuộc quyền sở hữu của tôi, giống như tài sản
của tôi vậy. Cũng như vậy nếu tôi muốn làm việc bố thí, đầu tiên phải
xem ý nguyện của tôi. Giả sử tôi không có ý nguyện đem tài sản của mình
cho quý vị nhưng bị quý vị cướp giật, khi đó tôi nóng giận ra tay giết hại quý
vị thì lúc này tôi có thể bị đọa vào địa ngục. Việc bố thí thân thể
cũng vậy, có thể chấp nhận hay không là do tâm trí của quý vị quyết
định.
Đầu tiên
chúng ta thử suy nghĩ xem khả năng của ta đến đâu và nên chuẩn bị tâm trí như
thế nào, có bị đọa lạc hay không, không phải ở nơi hiến tặng thân xác,
mà ở nơi tâm trí này.
Chúng ta
phải thừa nhận rằng bất cứ vật gì trong vũ trụ này đều không thuộc
quyền sở hữu ta. Ngay cả thân thể này cũng vậy, nó chỉ là tạm thuê, khi
đến kỳ hạn thì phải hoàn trả.
Nhưng chúng ta thường cho rằng ở lâu thì “ăn
mày đuổi thần miếu” và lấy đó là của mình, giống như Phật giáo gọi đó
là “chấp ngã”, thật ra thân thể này không phải là của ta.
Do đó,
“hiến tặng thân xác” kỳ thật là “hoàn trả thân xác”. Vì thân “tứ đại” là
của tự nhiên, chúng ta chỉ tạm thời bảo quản có thời hạn. Bảo quản lâu
rồi thì lại muốn chiếm làm của riêng, giống như “khách trọ giành quyền
làm chủ”.
Để có
thể thuê được thân thể này quả không dễ dàng. Vì có những chúng sanh
phải mượn đến thân kiến, thân rắn, thân trâu, thân ngựa v.v... để sinh
sống. Vậy nên thân người khó được, mà thân thể này đang ở nơi có Phật
pháp; không phải ở Châu Phi, cũng không phải ở khu chiến loạn, cũng
không phải trong rừng nguyên thủy New Guinea. Có được điều kiện thuận
lợi như vậy, được ở nơi đẹp và sạch sẽ thế này, lại khiến cho thân thể
mỗi ngày khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ khổ, tự làm phiền phức chính bản
thân mình và người khác, khách trọ này thật là quá xấu xa.
Cho đến
một ngày, nơi ở quý vị thuê đã đến kỳ hạn phải hoàn trả, khi đó cả căn
phòng sẽ bị phá hủy. Nếu như lúc ấy có người đến và nhặt lại những
thứ còn có khả năng sử dụng, vậy thì hãy cứ để những thứ ấy tiếp tục
phát huy tác dụng, nó sẽ mang lại nhiều giá trị tốt đẹp.
Nếu như
tất cả chúng ta có được tâm niệm này, là trợ duyên cho vãng sanh, vì ta
đã có sự chuẩn bị nên được vãng sanh rất nhanh chóng. Đã đưa cho người
khác thì hãy vui vẻ thoải mái ra đi. Có những người quyến luyến thân
thể, khế ước thời gian quy định hoàn trả tới, chủ nhà đến đuổi mà còn
nấn ná chưa chịu dời đi. Hoặc là nhớ nhung níu kéo, nhất định phải gặp
được người thân cần gặp mới chịu.
Chỉ cần
có tâm nguyện, tâm bồ đề bố thí thì tôi cho rằng đó thật sự là một
trợ duyên chân chánh. Ý thức hôn trầm hoặc trạng thái hôn mê không
đồng nghĩa là ác niệm, không chánh niệm. Ngoài
ra, chúng ta cũng nên chú ý trong quá trình phân giải của tứ đại lúc
lâm chung, tuy có hiện tượng ý thức hôn trầm hoặc hôn mê nhưng không kết
luận họ nhất định không có chánh niệm.
Khi đức
Phật còn tại thế, có một vị trưởng giả thưa ngài: “Bình thường con
có thể giữ gìn chánh niệm, vì còn biết nghĩ về đức Phật. Nhưng lúc con
đem binh đi đánh giặc, hy sinh ở chiến trường, hoặc giữa đường gặp tai
nạn, chết ngoài ý muốn, lúc đó con có chánh niệm không?”
Đức Phật
dạy: không nên lo lắng, mỗi người sẽ theo niệm lực và tập quán riêng
khi còn sống của mình mà ảnh hưởng đến lúc đó. Đức
Phật đưa ra ví dụ, một cái cây bình thường khi lớn lên hướng về phía
tây, thử hỏi cái cây này khi ngã xuống nó sẽ hướng về hướng nào? Nhất
định sẽ là hướng tây. Tâm niệm của ông bình thường đều hướng về điều
thiện, về giác ngộ, trong bất cứ tình huống nào, thì sự phản ứng sẽ
tự nhiên hướng về điều thiện, về giác ngộ.
Không nên
cho rằng tỉnh táo thì đều hướng về thiện pháp, rất nhiều việc xấu
cũng là từ trong tỉnh táo mà ra. Khi tỉnh táo không nhất định đều
là chánh niệm, khi ý thức hôn trầm hoặc hôn mê không nhất định đều
là ác niệm. Khi quý vị la mắng người khác đều là lúc tỉnh táo, không
có ai lúc đang ngủ mà la; rất nhiều việc ác, pháp ác đều ở lúc
rất tỉnh táo mà ra.
Ý thức
hôn trầm hoặc trạng thái hôn mê cũng không đồng nghĩa là ác niệm,
không chánh niệm, quý vị không nên lấy quan niệm này mà tùy ý luận
đoán người chết có chết tốt không, đó là không có căn cứ.
Nhân vì
trong lúc vận hành của nội tâm, chỉ cần người đó có tâm, thì sẽ có
khả năng thành tựu thiện pháp. Có ít người lúc lâm chung khi còn hơi
thở cuối cùng, kiên trì muốn hoàn thành một một việc tốt. Đặc biệt
ở chiến trường, thân thể của họ có thể bị trúng bom đạn, mất rất
nhiều máu, toàn thân không thể cử động, nhưng vẫn xung phong hy sinh thân
mình để cứu đồng đội.
Một số bộ
phim nổi tiếng nói về đề tài chiến tranh đã xây dựng hình ảnh này rất rõ và
tràn đầy cảm xúc. Họ đã sống và chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để hoàn thành sứ
mạng được giao. Nội tâm chúng ta cũng vậy, tuy tứ đại đã phân giải rồi
nhưng niệm cuối cùng vẫn là niệm Phật.
Quán Như dịch trong tác phẩm "Niệm
Phật tam muội" của pháp sư Huệ Mẫn hiệu trưởng đại học Pháp Cổ Sơn Đài
Loan
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Các anh chị em tâm linh thân mến, đặc biệt
với cộng đồng Tăng Già Việt Nam, và tôi nghĩ có một số vị sư cô ở đây, Tì kheo
ni, có phải không?
Tôi thật sự vui mừng với lần thứ hai tôi
thăm viếng nơi này, với một ngôi chùa mới và rất lớn, hết bao nhiêu tiền đấy?
(mọi người cười)
Tôi nghĩ Đạo Phật là một tôn giáo cổ xưa từ
Ấn Độ rồi lan truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam pu chia, Lào, Việt
Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn rồi thì sau nàyTây Tạng, Mongolia và một bộ
phận ở Liên Bang Nga, những vùng này theo Đạo Phật, và Ấn Độ là chiếc nôi của
Đạo Phật nhưng đại đa số quần chúng là Ấn Giáo, cũng như Hồi Giáo, Ki Tô Giáo,
và những đạo khác.
Nhưng thế nào đi nữa, chúng ta đang ở
trong thế kỷ 21, kỷ thuật phát triển cao độ. Tôi nghĩ trong một hay hai
thế kỷ qua. Tất cả mọi nổ lực, tất cả mọi năng lượng đều tập trung
trong sự phát triển kinh tế, về tiền (cười). Bây giờ tôi nghĩ, ngay chúng
ta thật sự mở rộng trong yêu cầu của tiền, tất cả những sự lủng đoạn, tất cả
những kỷ thuật nhơ bẫn nhầm để kiếm ra tiền. Có phải thế không? Tôi
nghĩ tiền thật sự đầu độc nguyên tắc đạo đức của chúng ta. Tôi thật sự
nghĩ thế! Và rồi trong khi ấy không chỉ nguyên tắc đạo đức bị suy đồi mà
tiền cũng làm gia tăng ghen tỵ, nghi ngờ và rồi thì là thất vọng và đưa đến kết
qua giận dữ, bạo động.
Vậy thế nào đi nữa, một điều rất rõ ràng,
chỉ đơn thuần vật chất sẽ không mang đến hòa bình nội tại, điều ấy là chắc
chắn. Bởi vì tiền mang đến tiện nghi làm thoải mái thân thể chứ không
phải tâm hồn.
Trong siêu thị nếu quý vị thử tìm mua sự
bình an của tâm hồn, không thể được. Hay tất cả những cửa hàng dụng cụ kỷ
thuật, nếu quý vị hỏi mua một khí cụ để làm an ổn tinh thần; không [không thể
có]. Sự hòa bình của tâm tư phải đến từ bên trong, bởi vì đa số những sự
quấy rầy an bình nội tại là cảm xúc của chúng ta. Không phải những kẻ thù
ngoại tại, không phải những kẻ gây rối bên ngoài mà những yếu tố tàn phá tâm
thức chúng ta chính là những cảm xúc tiêu cực của chính chúng ta. Vậy thì
một cách tự nhiên, một cách hợp lý, một phương pháp hiệu quả để làm giảm thiểu
những cảm xúc tàn phá phải được phát triển trong tâm thức, từ chính những cảm
xúc ấy.
Nên ngày nay tôi cũng nói với mọi người,
trong vài nghìn năm trước, tôi nghĩ bốn, năm nghìn năm, chúng ta mở mang tín
ngưỡng, và chúng ta đặt trọn niềm hy vọng của chúng ta vào tín ngưỡng, bất cứ
khi nào chúng ta gặp khó khăn, chúng ta [chấp tay lại] cầu nguyện đến Thượng Đế
hay điều gì đấy, điều gì đấy huyền bí. Rồi thì ba trăm năm trở lại đây
khoa học, kỷ thuật phát triển. Rồi khoa học, kỷ thuật lập tức mang đến
cho chúng ta ... tiện nghi sẳn sàng, mọi thứ trở nên dễ dàng nên con người tự
nhiên chú ý hơn với khoa học và kỷ thuật hơn là tín ngưỡng. Rồi thì sau
này vào thế kỷ 20 qua kinh nghiệm cuối cùng chúng ta nhận ra sự giới hạn của
giá trị vật chất.
Tôi biết một số gia đình rất giàu có tôi
nghĩ là tỉ phú, những người ấy ở trình độ con người là những người rất không
vui. Họ có hàng triệu triệu đô la nhưng thất bại trong việc mang niềm vui
nội tại, rất rõ ràng.
Và rồi một vấn đề khác nữa, trong
những nhà khoa học, kiến thức của họ về não bộ, về thần kinh, những thứ này rất
phát triển. Rồi cuối cùng họ thích thú về vấn đề cảm xúc là gì? Tâm thức
là gì? Bởi vì y học, họ chỉ chú ý đến mãng tâm thức thật sự rất quan
trọng đến sức khỏe lành mạnh, cũng như hồi phục từ bệnh tật, từ giải phẩu, một
mảng tâm thức... rất quan trọng đối với họ. Cho nên bây giờ y học, cũng
như những nhà chuyên môn về não bộ. Một số nhà khoa học hàng đầu thật sự
biểu lộ sự hấp dẫn với vấn đề, cảm xúc là gi? Mối quan hệ giữa cảm xúc và
não bộ là thế nào?
Bây giờ, những ngày này, trong những nhà
khoa học ưa thích việc rèn luyện tâm thức với giải phẩu não bộ, với những
chất kích thích trong não bộ. Qua việc rèn luyện tâm thức, thật sự có thể
thay đổi,...Lần đầu tiên họ khám phá ra việc này. Nên qua việc rèn luyện
tâm thức ngay cả những bộ phận vật lý có thể thay đổi. Vì vậy, hai
nhân tố, từ kinh nghiệm giới hạn, hay giá trị vật chất. Và mặt khác sự
nghiên cứu khoa học, bắt đầu tập trung vào vấn đề, tâm thức là gì? Làm
thế nào để thay đổi tâm thức chúng ta? Thay đổi cảm xúc chúng ta như thế
nào?
Vì những nhân tố này, có những biểu lộ, đặc
biệt trong những người trẻ tuổi đã bắt đầu khuếch trương những quan tâm về các
giá trị nội tại, tâm linh. Tôi nghĩ đấy là hình ảnh thế giới của thế kỷ
21. Rồi thì tôi cũng nghĩ con người ở khắp mọi nơi, đặc biệt ở Âu châu,
và Hoa Kỳ, tôi nghĩ là thật sự chán ngấy với bạo động, Úc châu so sánh chắc khá
hơn (cười).
Nên con người, tôi nghĩ con người ở buổi
đầu thế kỷ trước, khi quốc gia tuyên chiến với lân bang, dân chúng cả nước, tự
hào, không thắc mắc gì, tham gia nổ lực chiến tranh. Tình thế như vậy
hoàn toàn thay đổi và cuối thế kỷ. Và bắt đầu thế kỷ 21, thí dụ khi Hoa
Kỳ sắp bắt đầu chiến tranh với Iraq, bao nhiêu người từ Hoa Kỳ đến Úc Đại Lợi
phản đối bạo động và muốn hòa bình qua biểu tình. Và dĩ nhiên,nhiều người
quan tâm, những quốc gia quan tâm chống lại chiến tranh, chống lại bạo động,
chống lại việc sử dụng bạo lực. Nên họ thật sự khao khát hòa bình.
Hoàn toàn chán ngấy với bạo động. Vì thế, một lần nữa, câu hỏi là, làm
thế nào mang hòa bình đến?
Hòa bình không có nghĩa là không có
những rắc rối khác. Cho đến khi mà con người còn tồn tại trên hành tinh
này, những vấn nạn nào đấy bắt buộc phải xảy ra. Do bởi nhận thức của con
người, lòng tham của loài người, khao khát của loài người. Nên vấn nạn sẽ
tiếp tục tồn tại.
Bây giờ chúng ta cần phương pháp thực tiển để giải
quyết xung đột, sự không đồng ý này. Nên đấy là đối thoại. Tôi
thường nói với mọi người, thế kỷ 20 trở thành thế kỷ của tắm máu, căn cứ theo
lịch sử, khoảng hai trăm triệu người bị giết một cách bạo động qua chiến tranh,
một con số đáng kinh hoàng.
Nếu một cuộc chiến lan rộng sử dụng vũ khí
nguyên tử, mà nó có thể mang đến hòa bình, giảm thiểu rắc rối thì cũng okay, nó
cũng chính đáng. Nhưng không phải như thế. Chỉ có khổ đau.
Cho nên, bây giờ thế kỷ 21 chúng ta phải làm cho nó là thế kỷ của đối thoại.
Nhằm để mang đến đối thoại, chúng ta cần sự
tôn trọng tâm linh đối với quyền lợi của người khác. Không chỉ là sự quan
tâm của tôi, sức mạnh của tôi và dửng dưng với sự quan tâm của người khác thì
làm sao đối thoại. Nên trong sự tôn trọng ấy, tinh thần chân thành với
tình anh chị em, toàn thể gần bảy tỉ người có thể xem như những người anh chị
em, chúng ta phải chăm nom đến sự quan tâm của họ. Với loại thái độ như
thế thì sự đối thoại đầy đủ ý nghĩa mới có thể phát triển.
Nên trong sự quan tâm ấy, căn bản truyền
thống ấy... là một khả năng vô hạn để đem đến tình anh chị em chân thành.
Mọi truyền thống tôn giáo đều có cùng khả năng, cho dù khác biệt triết
lý. Có những tôn giáo hữu thần như Ki Tô Giáo, ... niềm tin chủ yếu của
họ là Thượng Đế. Những tín ngưỡng vô thần như Phật Giáo, Kỳ Na Giáo, và
một số tư tưởng cổ truyền khác nữa của Ấn Độ không có khái niệm Thượng Đế,
không có đấng tạo hóa, nhưng tự chính chúng ta là tạo hóa. Nên triết lý
là rất khác biệt, nên theo quan điểm của những tôn giáo hữu thần, những Phật tử
chúng ta là người không có đức tin (tín ngưỡng vô thần).
Nên tất cả mọi tôn giáo, mặc dù khác biệt
triết lý nhưng cùng mang một giáo huấn, cùng một sự thực hành về từ ái, bi mẫn,
tha thứ, bao dung, tự giác. Tất cả những thứ này là cùng như nhau về thực
hành, cùng giống nhau trong một thông điệp. Nên tất cà mọi tôn giáo quan
trọng đều có cùng khả năng để hổ trợ con người.
Bây giờ về Phật Giáo, Đạo Phật ngày nay
tôi nghĩ, như tôi đã đề cập trước đây, cũng bao hàm những sự thực tập về
từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, ... như những tôn giáo quan trọng. Rồi
thì khía cạnh triết lý rất phức tạp. Như Đại Học Tu Viện Na Lan Đà, không
chỉ là một trung tâm Phật Giáo, nhưng là một trung tâm chuyên môn, một học viện
hàn lâm. Và nhiều đạo sư Na Lan Đà, tôi thường diễn tả là những giáo sư
của Na Lan Đà. Những đại sư này đã sáng tác, thật sự là những chủ đề
chuyên môn, các ngài tiến hành khảo sát: Thực tại là gì? Bản chất là thế
nào? Bản chất của vật chất, bản chất của tâm thức. Phần ấy tôi cho
là khoa học. Không phải là tôn giáo mà là khoa học.
Trong ba mươi năm qua, ô không, trong
khoảng bảy năm qua, tôi đã dấn thân một cách nghiêm túc với những nhà khoa học
hiện nghiên cứu xa hơn về tâm thức, về cảm xúc, kiểm soát cảm xúc này như thế
nào. Bây giờ khoa học, thí dụ ở Hoa Kỳ, Đại Học Wisonsin, Emory và
Stanford và một vài đại học nữa, họ thật sự tiến hành công việc nghiên cứu về tâm
thức theo sự giải thích của Đạo Phật về tâm. Họ đã tìm thấy những thông
tin hữu ích từ tài liệu cổ điển của Ấn Độ về vấn đề này, không chỉ Phật Giáo mà
cũng của Ấn Giáo.
Cho nên có một số người vốn duy trì khoảng
cách với bất cứ tôn giáo nào, nhưng trong con mắt của họ Đạo Phật bây giờ là
một ngoại lệ. Bởi vì nó không nhất thiết liên hệ với những khái niệm của
Đạo Phật về kiếp sống tới, nghiệp báo,... những thứ này, nhưng mà là về
khoa học tâm thức của Phật Giáo, về cảm xúc. Nên hoàn toàn rõ ràng rằng,
theo kinh nghiệm trong ba mươi năm qua của tôi, bây giờ rất rõ ràng, khoa học
Phật Giáo chắc chắn có thể có những cống hiến nổi bật trong khoa học hiện đại
liên hệ đến tâm thức cảm xúc, những thứ này.
Và một khía cạnh khác, người Việt Nam đã
trải qua những thời điểm khó khăn, chúng tôi cũng thế (cười), trong ý nghĩa ấy
chúng ta thật sự là những người anh chị em (cười). Những thời gian thay
đổi, có những vị tăng ni từ Việt Nam đến Ấn Độ để học hỏi Giáo huấn, nghe giảng
dạy ở đấy. Dường như thay đổi, và ngay cả có những thân quyến của các
lãnh tụ Cộng Sản đã đến đấy. Nên sự việc đang thay đổi. Nên thế nào
đi nữa những người Việt Nam nào sống trong những quốc gia như Pháp, Mỹ, cũng
như Úc, bất cứ quý vị sống nơi nào, quý vị mang trong mình truyền thống của quý
vị, tâm linh của quý vị. Do thế, ở Úc Đại Lợi, vốn là một quốc gia không
phải theo Đạo Phật, vốn là một đất nước Ki Tô Giáo, nhưng quý vị đã tìm ra một
nơi để thiết lập chùa viện của quý vị, nhằm để giữ gìn tâm linh Phật Giáo của
quý vị, tôi thật cảm phục.
Bây giờ, bất cứ những Phật tử nào, dù là
người Hoa, Nhật, Hàn, Việt, Thái, Tích Lan, Miến Điện, và Tây Tạng, Mongolia...
tôi luôn luôn tuyên bố rằng: Những người Phật tử chúng ta phải là những
người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật
Pháp, điều này rất căn bản.
Một cách truyền thống, chúng ta tự cho là
Phật tử nhưng thật sự không biết Đạo Phật là gì. Tôi thường đùa những Phật tử
Trung Hoa rằng, thật không phải [đúng nghĩa Phật tử khi chỉ chấp tay và nói] A
Di Đà Phật, A Mi Tò Phù, A Mi Tò Phù! (Cười). Và với người Tây Tạng tôi
thường đùa với họ rằng, trì niệm một mật ngôn nổi tiếng, Lục tự đại minh
chơn ngôn của Quan Âm, Án Ma Ni Bát Di Hồng, Om Mani Padme Hum, Om Mani Padme
Hum,..., khi quý vị đọc nhanh, giống như, om moni, moni, moni,... (mọi người
cười) âm thanh ấy nghe giống như money, money,...(money = tiền). Cho nên,
không có kiến thức, không biết ý nghĩa và rất thường khi tôi gặp những Phật tử
Ấn Độ hay Tây Tạng..., những sinh viên, khi tôi hỏi họ: - Tôn giáo của quý vị
là gì? Họ trả lời: Phật Giáo. Sau đó tôi hỏi, Phật là gì? Không có câu
trả lời. Không biết. Đức Phật được xem như chỉ là một nhân vật lịch
sử. Thế ấy là không đủ. Quý vị phải biết Đạo Phật thật sự là
gì! Và cũng như những người Ki Tô, quý vị phải biết điều Chúa Giê-su dạy
thật sự là gì! Chỉ tự nhận là Ki Tô hữu, làm dấu thánh giá là không đủ.
Vì thế, như Phật Pháp mà tôi đã đề cập phía
trước là một triết lý phong phú toàn triệt nên chúng ta phải học hỏi nghiên cứu
những thứ này.
Trước nhất là khoa học Phật Giáo, trên căn
bản của khoa học Phật Giáo rồi thì triết lý Phật Giáo phát triển, như hai
chân lý, bản chất vô thường, và duyên khởi tương sinh, những quan điểm triết lý
này được phát triển trên căn bản của thực tiển. Đấy là khoa học Phật
Giáo. Rồi thì điều này có thể thay đổi tâm thức chúng ta, có thể giảm
thiểu cảm xúc tàn phá, và cuối cùng có thể hoàn toàn tiêu trừ hoàn toàn những
cảm xúc tàn phá. Đấy là niết bàn, giải thoát, hay cứu độ.
Nên trên căn bản của khoa học, triết
lý Phật Giáo, nhận thức Phật Giáo phát triển, sau đó theo nhận thức Phật Giáo
rồi thì thực tập Phật Pháp. Do vậy, người Phật tử chân thật phải nên biết
triết lý Phật Giáo, khoa học Phật Giáo. Bằng trái lại việc thực
hành tôn giáo chỉ như tập tục, theo thói quen không có ý nghĩa gì nhiều.
Do thế, các anh chị em Phật tử của tôi, xin
hãy học hỏi thêm nữa. Và việc thăm viếng chùa viện và ở trước Đức Phật
phát lời cầu khẩn, trì niệm thì không đủ, chúng ta phải học hỏi những điều Đức
Phật dạy bảo thật sự là gì. Và học hỏi theo căn bản lời dạy của Đức Phật
được soạn thảo chi tiết bởi chư vị tổ sư Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân,... tất
cả những đại sư của Na Lan Đà giảng giải kỷ lưởng. Và nếu có thể, nghiên
cứu Luận học Phật Giáo, luận lý học, của các tổ sư Trần Na, Pháp Xứng, Nguyệt
Xứng, Liên Hoa Giới,... Trong Tạng ngữ, những luận điển của các ngài trên đã
được dịch ra rất tiện dụng.
Tôi được nghe nói là trong đại tạng Trung Hoa
không có những dịch phẩm này, hoặc chỉ có một phần nào thôi, chưa được dịch ra
hết. Hiện tại đã có một số hoạt động để chuyển dịch ra Hoa ngữ, đã được
bắt đầu rồi. Cuối cùng, những luận điển này sẽ hiện diện bằng Hoa
ngữ. Và sau đó sẽ được diễn dịch dễ dàng sang Việt ngữ, Hàn ngữ và Nhật
ngữ. Rõ ràng chứ!
Xin hãy chú ý thêm trong việc học hỏi,
nghiên cứu. Học hỏi, nghiên cứu! Rồi thì đức tin căn cứ trên tri thức
trọn vẹn, đức tin ấy sẽ sâu sắc hơn nhiều, điều ấy là quan trọng!
Chân thành cảm ơn! Đấy là tất cả.
Tôi hy vọng sau này, chánh điện này không
chỉ để cầu nguyện mà cũng là lớp học, nơi để học tập. Tôi hy vọng
như thế. Nên lần sau đến đây, tôi hy vọng cũng thấy lớp học của quý
vị. (Cười).
Dâng càng
nhiều tiền sẽ được hưởng càng nhiều lộc?
- Ngoài
việc thắp hương đi chùa nên cúng đồ lễ gì cho đúng, thưa ông?
- Trong
Phật Giáo không có cúng tiền vàng và đặc biệt là không cúng đồ mặn. Tiền vàng
và đồ mặn chỉ dùng khi cúng thờ Mẫu hoặc là các vị thánh thần mà thôi. Đến với
Phật chỉ cần nén hương và hoa quả. Việc cúng đồ mặn và tiền vàng khi đến chùa
hiện nay là do có thể nhiều người khi đến chùa có những nơi có thánh thần hoặc
thờ mẫu thì có thể họ cho rằng Phật ở cao hơn thánh thần nên cũng cúng mặn cho
Phật, đó là việc làm hoàn toàn sai lệch khi đến với Đạo Phật. Vì vậy hiện nay
một số ngôi chùa đã ghi rõ "không mang vàng vào chùa."
Dâng mâm
lễ vàng mã, đồ mặn vào chùa là hoàn toàn không đúng khi đến với cửa Phật.
- Ý kiến
của ông về hiện tượng rất nhiều chùa hiện nay người dân dâng tiền lẻ hay đốt
vàng mã tràn lan khắp mọi nơi?
- Khi
tiền tệ xuất hiện, người đến chùa cúng đồng tiền đó là để đóng góp cho nhà chùa
xây dựng, sửa sang đúc chuông tô tượng, nó mang ý nghĩa như phương tiện
vật chất để truyền tải cái tâm, cái ý đồ muốn đến với đức Phật,
nhằm góp phần tôn vinh và cụ thể hóa cái tâm của con người với tinh thần Phật
giáo mà thôi. Còn hiện nay khi đi chùa việc dâng, đưa lẻ khắp mọi nơi,
đốt vàng mã tràn lan, hoang phí trong chùa với mục đích và suy nghĩ thực
dụng rằng cúng, dâng càng nhiều tiền sẽ được hưởng càng nhiều lộc. Đó được coi
như là hành động “Hối lộ thánh thần”, hiểu sai lệch hoàn toàn tinh thần của
Phật Giáo. và đức Phật cũng sẽ không ủng hộ những hành động này.
- Xin cám
ơn ông!
Hoàng
Nguyên (thực hiện)
CHUỖI NGỌC TRÂN BẢO PHÁP THÍ
SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
BIỂU TƯỢNG ĐÈN
HOA SEN PHẬT ĐẢN
AN CƯ KHO BÁU NIỀM TIN VÀ TRÍ TUỆ
PHÁP TU CĂN BẢN CỦA PHẬT TỬ
NGUỒN GỐC CỦA KHỔ ĐAU (CTLĐ TẬP 1)