Wednesday, June 20, 2012

***Y NGHĨA BẤT Y NGỮ (CTLĐ TẬP 3)


TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

Lời nói chẳng động tâm ta.
Dù lời nói ngọt hay là đắng cay.
 
Trên thế gian này, chúng ta thường gặp, nhiều điều phiền não, lắm nỗi khổ đau, sinh ra do bởi, lời nói con người. Chỉ cần thoáng nghe, một lời nặng nhẹ, một lời phê bình, phê phán chỉ trích, dù đúng hoặc sai, một lời bóng gió, vu vơ mơ màng, một lời truyền miệng, hoặc chuyện rỉ tai, con người liền khởi, tâm niệm bực bội, tức giận bất an. Người nào chấp ngã, tự ái quá độ, đụng độ tức thì, bùng nổ chiến tranh, sanh ra lớn chuyện, người đi bệnh viện, kẻ đi lao tù. Người nào tự chế, ngoài mặt tĩnh bơ, nhưng ở trong lòng, sóng gió ba đào, về đến tận nhà, ăn không biết ngon, tối ngủ chẳng yên.  Những lời khó nghe, văng vẳng bên tai, một cách dai dẳng, chẳng biết làm sao, dứt bỏ cho được. Cái người nói ra, những lời khó nghe, đã đi đâu mất, đã quên từ lâu. Chỉ có người nghe, cảm thấy nặng nhọc, như bò kéo xe.  

Tại sao như vậy?  Bởi vì người nghe, nghe rồi thì dính, dính rồi đem vào, chất chứa bên trong, kho tàng tâm thức, lâu lâu nhớ lại, tức giận một mình! Bởi vậy cho nên, nếu như muốn có, cuộc sống hằng ngày, an lạc hạnh phúc, chúng ta nên dẹp, bỏ tự ái xằng, bằng cách diệt trừ, chấp ngã chấp pháp, luôn luôn thực hành: Giáo Pháp Vô Ngã, bằng cả tấm lòng: Từ Bi Hỷ Xả, nhứt là hiểu rõ, thực hành "Tứ Y" như lời Phật dạy, cuộc sống hằng ngày, của mỗi chúng ta. 

Giáo lý Tứ Y, ở trong đạo Phật, gồm có bốn điều:
Y Pháp Bất Y Nhân, Y  Nghĩa Bất Y Ngữ, Y Trí Bất Y Thức, Y Liễu Nghĩa Bất Y Bất Liễu Nghĩa.
 
* * * 
Trong bài viết này, chúng ta đề cập: "Y Nghĩa Bất Y Ngữ".  Câu này có nghĩa: chúng ta chỉ nên, quan tâm ý nghĩa, không nên chấp chặt, ngôn ngữ văn tự, không nên chấp chặt, lời nói chữ viết, nếu chúng không có, ý nghĩa gì cả. Làm được như vậy, chúng ta bớt nhiều, phiền não khổ đau, trên thế gian này. Có những lời nói, thực ra vô nghĩa, nhưng cũng có thể, làm cho người khác, bực mình bực mẫy, giận lẫy bất an. Chẳng hạn như là: có người nói rằng, mình ngu như bò, mà bày đặt trò, dạy đời dạy đạo, xạo quá xá chừng!  Chẳng hạn như là: có người nói rằng, mình chép bài viết, của các người khác, rồi để tên mình, xưng là tác giả! 
 
Nếu như thu nhận, các câu nói đó, chứa trong tâm trí, rồi sanh phiền não, bất an giận tức, quả thực như là: chúng ta không được, thông minh cho lắm.  Các loại câu nói, tương tự như vậy không có căn cứ, vào chỗ nào cả, chúng ta khởi tâm, giận tức làm gì, cho mệt tấm thân. Thực ra nên hiểu, những lời nói đó, đều là vô nghĩa, bởi vì chính mình, không ngu không dốt, bởi vì chính mình, không phải con bò, bởi vì chính mình, không chép trộm bài, của bất cứ ai, cho nên không cần, quan tâm chú ý, những lời như vậy.
 
Những lời nói đó, trên thế gian này, thực là quá nhiều, thường làm điêu đứng, khổ nạn người nghe. Người đời thường thích, nói ra những lời, chọc tức người khác, bằng những lời nói, mơ hồ vu vơ, không có căn cứ, không có nghĩa gì.  Thí dụ có người, hỏi chúng ta rằng: Tại sao dạo này, anh hay là chị, bị mất uy tín, quá xá như vậy?  Câu hỏi thế đó, không có ý nghĩa, chỉ nhằm mục đích, chọc tức mà thôi.  Chúng ta nghe rồi, thì thôi đừng nhớ, có thể lờ đi, như không nghe thấy, bởi vì nếu hiểu, một cách tường tận: giáo lý "vô ngã", không có "bản ngã", nên không thu nhận, những lời như vậy, vào trong tâm trí. 
 
Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta không còn, cảm thấy bực bội, phiền não khổ đau.  Hoặc khiêm nhường hơn, từ tốn đáp rằng: Chúng tôi đâu có, uy tín hồi nào, để mất cơ chứ!  Hoặc là có người, phê bình chúng ta, thường hay nóng tánh, chúng ta lập tức, phản ứng tức thì, lên tiếng cãi chánh, khởi tâm niệm bực, quả thực người ta, nói chẳng có sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí có người, viết bài phê phán, miệt thị chỉ trích, mạ lỵ chửi bới, vu khống sỉ vả, khiêu khích lăng nhục, bôi lọ chụp mũ, đặt điều bịa chuyện, nhưng chúng ta y nghĩa bất y ngữ, họ không thể nào, xúc phạm đụng chạm, gây ra phiền não, tạo thêm khổ đau, cho chúng ta được. 
 
Người ta cố ý, đưa lửa tới đốt, mình không đáp ứng, không đưa thân tâm, ra để lãnh đủ, thì họ chỉ đốt, "hư không" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì, đến chúng ta cả.  Chửi bới hồi lâu, không thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy, về phía chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi, phí công tổn sức, rồi tự ngưng thôi. Còn nếu ngược lại, chúng ta phản ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, nói gần nói xa, biện bạch phải quấy, cho rõ đúng sai, cũng giống như là, thổi hơi vào lửa, cho bùng thêm lên, hà hơi tiếp sức, gây thêm cảm hứng, tạo thêm duyên cớ, cho họ làm tới, chuốc thêm phiền não, khổ đau mà thôi. 
 
Lúc Phật tại thế, gặp người ngoại đạo, đi theo quấy rầy, nhưng vẫn thản nhiên, cất bước khoan thai, như không có chuyện, xảy ra gì cả.  Người đó thấy Phật, tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Đàm, có chịu thua chưa?  Lúc đó Đức Phật, từ tốn nói kệ: 
Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành. 
 

Lại còn thêm nữa, tâm của chúng ta, luôn luôn tưởng tượng, cho nên gây ra, phiền não khổ đau.  Một lời nói ra, diễn giải kiểu nào, tùy tâm người nghe. Có người nói ra, một câu thực là: vô-thưởng-vô-phạt, vô-ý-vô-tứ, chẳng ngụ ý gì, chúng ta tưởng tượng, suy diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để rồi chuốc lấy, giận dỗi bực bội, phiền não khổ đau. Chuyện này xảy ra, trong mọi cuộc sống, của các gia đình, ở khắp mọi nơi, rất là thường xuyên. 
Trong cuộc nói chuyện, bàn cãi thảo luận, ở giữa đám đông, thường dễ mích lòng, chỉ vì câu nói, của một con người, cộng thêm tâm trí, tưởng tượng phong phú, của các người khác. 
 
Nếu trong gia đình, người vợ người chồng, nói ra lời nào, đều được hiểu theo, khía cạnh tốt đẹp, đừng có tưởng tượng, khía cạnh xấu dở, cuộc sống gia đình, chắc chắn hạnh phúc. Dễ chịu một chút, cảm thông một chút, tha thứ một chút, cuộc sống chắc chắn, vui vẻ khỏe khoắn, nhiều hơn một chút! Khi chúng ta nói, tốt cho người nào, người đó sẽ ráng, cố gắng giữ gìn, được tốt như vậy.  Người đó sẽ ráng, phát huy mặt tốt, bỏ điều không tốt. Chẳng hạn như là: cha mẹ rầy la, nhiếc mắng con cái, nhưng không bao giờ, mở lời khen thưởng, cũng không bao giờ, nói tốt con cái, thậm chí nhiều khi, đem các tật xấu, của con cái mình, nói với người ngoài, trước mặt con cái. Tác dụng giáo dục, sẽ rất tiêu cực, dễ gây buôn bực, cho con cái mình! 

Có câu chuyện sau, đáng cho các bậc, phụ huynh nghiền ngẫm: Có một chú tiểu, sống trong tu viện, đợi khi trời tối, thường hay leo tường, đi ra ngoài chơi.  Vị sư trụ trì, biết được việc ấy, nhưng chẳng nói gì.  Hôm nọ sau khi, đi chơi trở về, chú tiểu leo tường, trở vào bên trong, bởi vì trời tối, không có đèn dầu, đặt chân ngay đầu, của vị sư phụ, thay vì chiếc ghế, dùng để trèo tường, ra chơi bên ngoài. Vị thiền sư đó, chẳng nói nửa lời, quở phạt trách móc, còn ân cần khuyên: Con đi ngủ đi, đã khuya rồi đó!  Từ đó về sau, chú tiểu cảm thông, không dám tái phạm, bèn hạ quyết tâm, hết lòng hết sức, tận tâm tận tình, tận lực tận sức, tu học tinh tấn.  Về sau trở thành, một vị thiền sư, nổi tiếng khắp nơi, giúp ích đạo đời, nhiều người lợi ích.  Bởi vậy cho nên, trong sách có câu: 
Tha thứ thì thư thái. Thư thái thì thành tựu.
Thành tựu thì thanh thản. Thanh thản thì thảnh thơi.
 
Có rất nhiều khi, người ta nói xong, lời nói khó nghe, làm mình khó chịu, ngày này ngày khác, tháng này tháng khác, năm này năm khác, trong khi người nói, quên mất lâu rồi, còn mình thì sao, lúc nào cũng nhớ, ôn đi lập lại, làm khổ lỗ tai, vợ chồng con cái. Như vậy nên biết, nếu như chúng ta, không hề chấp chặt, lời nói vô nghĩa, câu văn bài viết, xuất phát từ lòng, ganh tị đố kỵ, ghen ghét hơn thua, hận thù thành kiến, nhứt định chắc chắn, chúng ta sẽ không, nhức đầu nhói tim, khỏi cần uống thuốc, chẳng cần xức dầu, nghĩa là chúng ta, không hề phiền não, và chẳng khổ đau. Chẳng hạn như khi: chúng ta đi dự, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà, đem ra biếu tặng, chúng ta không nhận, tức nhiên chủ nhà, giữ quà đó lại.  Cũng y như vậy, người đời thường tặng, lời khen tiếng chê, đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận, tức nhiên sẽ được: ăn ngon ngủ yên, an lạc hạnh phúc. 
Trong sách có câu:
Thần khẩu nó hại xác phàm.
Người nào nói quá họa làm khổ thân.
Hoặc:
Lỡ chân gượng được đứng lên.
Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi.
Hoặc:
Nước đổ còn khó hốt thay.
Nói rồi hối hận chẳng hay chút nào. 
 Trong kinh nghiệm sống hằng ngày, ít ai hối hận vì ít nói,
 nhưng nhiều người hối hận vì nói nhiều, và nói quá lời. 
 
Trong gia đình nào, vợ chồng đồng lòng, tu tâm dưỡng tánh, nếu vợ hay chồng, nói lời khó nghe, người kia vui vẻ: nói bớt chút đi, giảm 50% nhe, sao mắc quá vậy?  Người vợ hay chồng, nghe qua liền tỉnh, nở nụ cười tươi.  Thế là mọi sự, mọi việc bình yên, vui vẻ khỏe khoắn, gia đình hạnh phúc, chắc chắn không nghi!  Gia đình như vậy, khỏi coi thầy bói, khỏi tới luật sư, khỏi thăm bác sĩ, mặt không như khỉ, tâm hồn phơi phới, thanh thản thảnh thơi, vui tươi suốt ngày! Trong lòng chất chứa, quá nhiều lời nói, thường là khó nghe, nên khó tiêu hóa, tâm của chúng ta, sẽ bị bất an, ngày ăn không ngon, đêm ngủ không yên, thành tiên mắc đọa, thực là tai họa, cuộc đời kém vui. Nếu chúng ta hiểu, lời nói người khác, khía cạnh tốt đẹp, chắc chắn cuộc đời, sẽ vui vẻ hơn. 
Như trong gia đình, vợ chồng con cái, nói lên lời nào, đều được mọi người, hiểu theo ý tốt, vui vẻ đón nhận, chắc chắn gia đình, luôn luôn hạnh phúc, không có tranh cãi, khỏi phải cầu nguyện, khỏi cần van xin, thần linh thượng đế, phù hộ độ trì. 
 
Người nào đang mang, mắt kiếng màu hồng, sẽ thấy cuộc đời, hồng hồng vui tươi, sáng sáng trong trong.  Bằng như ngược lại, người nào đang mang, mắt kiếng màu đen, sẽ thấy cuộc đời, u ám tối thui, nhìn thấy người nào, cũng tưởng là ma, đen thủi đen thùi!  Hạnh phúc thối lui, phiền não khổ đau, khởi đầu từ đó! 
Trong kinh sách có, câu chuyện như sau: Chú tiểu theo sau, hầu vị hòa thượng, cả hai đang đi, trên con đường làng.  Nhìn thấy cảnh tượng, các người nông dân, làm lụng vất vả, các con trâu cày, cực nhọc vô cùng, nhiều con côn trùng, bị lưỡi cày cắt, đau đớn oằn oại, khắp nơi trên ruộng, chú tiểu phát tâm, đại từ đại bi, thương xót chúng sanh, bèn thốt lên rằng: 
- Con quyết tu hành, cho thành chánh quả, để độ chúng sanh. 
 
Vị hòa thượng tán: Con tâm bồ tát, hãy đi phía trước, để thầy đi sau, con chớ đi mau, thầy không theo kịp.  

Đi thêm một đoạn, cảm thấy mệt quá, chú tiểu bèn than: Tu hành thiệt khổ! Không tu sướng hơn! 

Vị hòa thượng phán: Con đã thối tâm, hãy đi phía sau, để thầy đi trước!  

Câu chuyện có nghĩa: Nói nhiều chừng nào, thố lộ người biết, tâm của chính mình, động nhiều chừng ấy!  Đơn giản như vậy! Trên đời này có, rất nhiều người thích, thần thông phép lạ, chứ không quan tâm, tu tâm dưỡng tánh. Chẳng hạn như là: họ tất thích được, chứng thiên nhãn thông, và thiên nhĩ thông. Tức là khả năng, thấy được ngàn dặm, nghe được ngàn dặm, xuyên sơn cách vách.  Những người như vậy, nếu được thần thông, không còn an ổn, chắc chắn khổ đau, vô cùng vô tận.

 
Tại sao như vậy?  Bởi vì nên biết, những lời sau lưng, lời nói sau vách, lời nói nơi xa, thường là những lời, nói rất khó nghe, như bò kéo xe, không nói trước mặt, đó là những lời, phát từ tâm ma, không phải tâm Phật, chẳng hạn như là: tâm tham sân si, ganh tị đố kỵ, hơn thua phải quấy, thị phi đúng sai. 
Trong sách có câu: "Tiếng lành đồn gần. Tiếng dữ đồn xa"
 
Khi nghe được những, lời nói như vậy, bởi vì không biết, tu tâm dưỡng tánh, chắc chắn con người, khởi tâm tức giận, cuộc sống bất an, bắt đầu cho những, phiền não khổ đau, xảy ra sau đó, bởi do tâm ma, từ chính mình ra, khiến mình phản ứng, đối chọi trả đủa, những điều nghe được, những điều thấy được, do thiên nhĩ thông, do thiên nhãn thông! Bởi vậy cho nên, đạo Phật chủ trương: tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp chuyển nghiệp, chuyển hóa cuộc đời, phiền não khổ đau, biến thành an lạc, hạnh phúc trần gian. 
 
Ở trong đạo Phật, không hề quan trọng, các chuyện thần thông, phép lạ kỳ hoặc, không cần biết đến, tượng đá biết khóc, thiệt hay là không, không cần biết đến, tranh chảy nước mắt, thiệt hay là không, không cần biết đến, thần thánh hiện ra, ở trên vách tường, trên các đám mây, trên các ngọn cây, trên nóc nhà thờ, trên các cánh đồng, hay trong giáo đường, trong các chùa miễu, thiệt hay là không.
 
Tại sao như vậy?  Bởi vì nên biết, những chuyện thần thông, không thiệt không tưởng, chẳng hề đem lại, ích lợi gì cả, cho việc tu học, tu tâm dưỡng tánh, chẳng hề đem lại, an vui lợi lạc, cho bất cứ ai.  Người nào chỉ biết, quan tâm đến chuyện, thần thông phép lạ, linh thiêng huyền bí, mơ mơ hồ hồ, cầu nguyện van xin, tức là người đó, lạc vào tà giáo, hành theo ngoại đạo, không phải Chánh Pháp, không đúng đạo Phật, dù người đó là: tu sĩ tại chùa, Phật Tử tại gia! Hơn nữa chúng ta, cần lưu ý rằng: chính con người thường, làm việc cứu xét, phong thánh phong thần, cho nhiều người khác, qua đời trước kia, vì không giữ được, mạng sống của họ, nên phải hy sinh.  Để rồi sau đó, cũng chính con người, cầu nguyện thần thánh, trở lại giúp đỡ, phù hộ độ trì, bảo vệ gìn giữ, chính thân mạng mình, và linh hồn mình!  Thực là lẩn quẩn!  Thực là loanh quanh!  Thực là ngây thơ!  Như người đang mơ, chưa chịu tỉnh thức! 
Đối với lời nói, sách vở cổ kim, từ đông sang tây, ca dao tục ngữ, truyền miệng thế gian, có thực là nhiều, chẳng hạn như là: 
"Ăn thì phải nhai, nói thì phải nghĩ". 
"No ăn mất ngon. Giận nói mất khôn". 
"Thân giáo hơn là khẩu giáo". 
"Người khôn nói ít hiểu nhiều.
Người ngu nói mấy cũng liều tấm thân". 
"Nên làm gương hơn là nói bằng lời". 
"Deeds speak louder than words".
"Người khôn nói ít mà hay.
Người nào nói lắm dù hay cũng nhàm". 
"Hay làm hơn là hay nói. Hay nói không bằng nói hay". 
 
Người ta thường chê những kẻ "Năng thuyết bất năng hành", tức là những kẻ, chỉ biết nói suông.  Chẳng hạn như là: sống trong gia đình, muốn có hạnh phúc, người làm cha mẹ, nên phải làm gương, cho con bắt chước, người nào hổn xược, con cũng làm theo, người nào gian dối, con cũng dối gian, làm sao đàng hoàng, thẳng ngay cho được?  Nhân nào quả nấy!  Hình nào ảnh nấy! 

 
Trong sách có câu: "Trên đường chó sủa, cứ mặc chó sủa, đoàn người đang đi, vẫn tiếp tục đi", có ngụ ý rằng: người đời thường hay, lắm lời nhiều chuyện, lắm miệng to mồm, thường xen vào chuyện, của nhiều người khác, thường hay chơi trò, thọc gậy bánh xe, thường thích ngậm máu, phun người lấm lem, thường phao tin đồn, rêu rao nhảm nhí, nản chí người ngay, thường hay phê phán, cho người đâm chán, chẳng muốn làm gì, ích lợi mọi người.  Người đời cho đó, là hạng chó sủa, chẳng đáng quan tâm, vững lòng tiến bước, đoàn người cứ đi, chẳng vì chó sủa, đâm ra nản lòng, thối chí uổng công. 
 
Tuy nhiên người biết, tu tâm dưỡng tánh, thường không ví họ, tệ hại như chó, theo thói thường tình, không coi những người, thường hay mắng chửi, hay thường tâng bốc, là những kẻ thù. 
Tại sao như vậy?  Bởi vì thế này, nếu làm như vậy, tâm mình bị động, bực bội bất an, công phu tu tập, khó mà khá được.  Trái lại, chúng ta nên coi, họ như những bực, thiện hữu tri thức, những vị giám khảo, trên đường tu đạo, thử thách tâm mình, tu tập đến đâu, nếu biết chăn trâu, hãy giữ tâm mình, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, trước mọi sóng gió, mọi tiếng khen chê, phê bình chỉ trích, nói khích nói trêu, vững tâm bồ đề, chẳng hề lay chuyển. Làm được như vậy, công phu tu tập, mau chóng đạt thành, kết quả mỹ mãn. 
* * *
Tóm lại nếu như, chúng ta thực hành, "y nghĩa bất y ngữ" được bao nhiêu, cuộc sống chúng ta, an lạc hạnh phúc, tương ứng bấy nhiêu.  Y nghĩa bất y ngữ giúp con người, cải thiện đời sống, chuyển hóa hoàn cảnh.  Hoàn cảnh an vui, hay là khổ não, đều do chúng ta, tạo ra gây ra. 
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
"Nhất Thiết Duy Tâm Tạo". 
Nghĩa là tất cả mọi sự mọi việc đều do tâm của chúng ta tạo ra.  Hiểu sai lời nói, chấp chặt ngôn ngữ, chắc chắn sinh sự.  Sinh sự sự sinh.  Nếu như chúng ta, muốn sống trong cảnh, an nhiên tự tại, thì hãy ráng nhớ: "y nghĩa bất y ngữ".  Thực là đơn giản! 
 
Trong sách Phật học, các từ ngữ như: "vô học", "hư thân", ý nghĩa thâm sâu. Người muốn thực hành, tu tâm dưỡng tánh, phải học kinh điển, và đem áp dụng, đời sống hằng ngày.  Cho đến lúc nào, không chỗ chứng đắc, không phải học nữa, lúc đó được gọi: là bậc vô học, tức là bồ tát.  Còn cái từ ngữ, hư thân nghĩa là: cái thân tứ đại, tất cả chúng ta, đều là giả tạm, hư dối không thực, tạm bợ vô thường, biến đổi luôn luôn, tùy theo thời gian, cho đến lúc bị, hư hoại mất đi, về với cát bụi.  Ở ngoài thế gian, cũng những chữ đó, nhưng có nghĩa khác, ý xấu tiêu cực, thường dùng ám chỉ, miệt thị người khác. 
 
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: 
 "Không nên quan tâm, đến chuyện thế gian.
 Không nên loan truyền, các loại tin đồn".
 
Tây phương dịch là: "You should not concern yourselves with worldly affairs, nor yet circulate rumours". 
Tại sao như vậy? Bởi vì nên biết, các chuyện thế gian, thường là những chuyện, nhơn ngã thị phi, phải quấy đúng sai, tranh chấp hơn thua.  Các loại tin đồn, thường không căn cứ, không có xác thực, không đáng tin cậy, khó kiểm chứng được, chỉ nhằm làm hại, thanh danh người khác. 
Những chuyện thế gian, các loại tin đồn, thảy đều làm cho, tâm trí con người, bất an chao động, có hại mà thôi, chẳng ích lợi gì, đem đi rao truyền!  Những kẻ xấu mồm, các người xấu miệng, lấy làm thích thú, khi thấy chúng ta, bực bội bất an, vì những lời nói, cố ý của họ.  Đó chính là điều, mà họ mong muốn. 
Nếu như chúng ta, bình tĩnh thản nhiên, như không có chuyện, gì xảy ra cả, những lời vu oan, sẽ tan biến dần, đi vào quên lãng.  Chúng ta chỉ nên, dành hết thì giờ, tập trung lo chuyện, tu tâm dưỡng tánh, cho đến khi được: giác ngộ giải thoát. 
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
Tắng ái bất quan tâm.
Trường thân lưỡng cước ngọa. 
Nghĩa là những chuyện, thương thương ghét ghét, chẳng làm bận lòng, chúng ta sẽ nằm, thẳng hai chân cẳng, mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc, khỏi phải trăn trở, nằm đếm một hai, ba bốn trăm ngàn!  Khỏe re!  Khỏe ru!
Như vậy chính là:  "y nghĩa bất y ngữ". 


Friday, June 15, 2012

***ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO GIÁC NGỘ



 HT.THÍCH THANH TỪ

Trong kinh kể, khi giác ngộ viên mãn, Đức Phật có đầy đủ Tam minh, Lục thông. Tam minh gồm:

1. Túc mạng minh: Phật thấy biết vô số kiếp về trước của mình cũng như của chúng sanh như chuyện mới xảy ra hôm qua. 

2. Thiên nhãn minh: Phật thấy suốt những vật hết sức xa và hết sức nhỏ. Như trong hư không Phật thấy thế giới nhiều như cát sông Hằng. Lời nói ấy tới ngày nay khoa học, thiên văn học mới tìm được phần nào thôi, chớ chưa thấy hết. Nhìn vào một bát nước Phật nói có vô số vi trùng. Vì thế có câu "Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng", nghĩa là Phật nhìn trong bát nước, thấy có tám muôn bốn ngàn vi trùng. Hồi đó không có kính hiển vi mà Ngài vẫn thấy, tới bây giờ không hề lạc hậu. Nhìn vào thân này, Phật cũng bảo có vô số vi trùng, nguyên chữ Hán là "Nhân thân chi nội hữu vô số vi trùng, tại trung vi trú", tức trong thân này có vô số vi trùng. 

Cái thấy, cái biết từ sự buông hết loạn tưởng, tâm hoàn toàn an định gọi là tuệ. Đây là trí tuệ chớ không phải là trí thức. Trí thức là những gì chúng ta học được từ bên ngoài, còn trí tuệ là cái sáng suốt phát sinh từ bên trong, do thiền định mà có. 

3. Lậu tận minh: Phật thấu suốt do nguyên nhân nào chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử và làm cách nào để thoát khỏi sanh tử. Nên bài pháp Tứ đế, Ngài nói rõ nguyên nhân và kết quả sanh tử, nguyên nhân và kết quả của giải thoát sanh tử.

Trong nhà Phật dùng từ trí vô sư, tức trí không có thầy. Trí đó là tánh giác của mình, nhưng vì ta vô minh nên nó bị khỏa lấp từ lâu. Bây giờ lóng sạch hết những vọng tưởng lăng xăng, không còn gì che lấp nữa thì nó sẽ sáng lên. Các nhà bác học khi muốn nghiên cứu một vấn đề gì, họ phải dồn hết tâm lực vào đó, có khi quên cả ăn ngủ, vợ con. Nhờ tập trung như vậy mới phát minh được việc này việc nọ. Thử hỏi lúc đó họ học với ai? Chỉ chú tâm vào một vấn đề, buông hết mọi chuyện chung quanh, tâm trí tự sáng lên. Cũng thế, trí vô sư có sẵn nơi mình, nhưng ta không dùng được là tại không biết phát huy. 

Đạo Phật đúng ra không phải là một tôn giáo, một triết học, mà là đạo giác ngộ. Phật là bậc giác ngộ, đạo là phương pháp đưa chúng sanh tới giác ngộ. Đến với đạo Phật không phải từ lòng tin mà từ trí tuệ. Tin mới gọi là tôn giáo, tín ngưỡng. Còn triết lý do suy luận mà hiểu, có lúc sẽ lỗi thời. Đạo Phật dạy chúng ta giác ngộ, từ thâm tâm sáng lên thấy đúng như thật. Nên người học Phật là người tìm đến chỗ cứu kính như thật. Muốn tới chỗ cứu kính đó phải quên những vụn vặt lăng xăng, trí tuệ mới phát sinh. Rõ ràng trí tuệ ấy không phải từ đâu tới, nó có sẵn nơi mình rồi, nhưng tại ta bỏ quên.

Tôi thường ví dụ, chúng ta múc nước đục đổ vào khạp. Ban đầu nước đục không xài được. Ta chịu khó lóng phèn hoặc để nó yên lặng một thời gian, nước trong trở lại mới dùng được. Tại sao nước đục? Tại có chất nhơ bẩn, đất bụi hòa tan trong đó nên nó đục. Những chất ấy lắng xuống, chìm lặng hết thì nước trở thành trong. Khi nước đục thì vô dụng, lúc thành trong là hữu dụng. Đục và trong, công dụng khác nhau. Thử hỏi nước trong từ đâu tới? Ngay trong nước đục có, chớ từ đâu. Nước đục mà khéo lóng thì thành trong.

Cũng thế, tâm chúng ta lăng xăng là đục, bao giờ nó lặng được thì thành trong. Mà trong là sáng, nhà Phật gọi đó là tánh giác. Tánh giác từ đâu tới? Chỉ sạch đi cặn bã vọng tưởng thì nó hiện ra. Tánh giác sẵn có nhưng vì lâu nay bị những thứ khác hòa tan, khuấy nhiễu làm cho nó đục. Bây giờ muốn nó trong trở lại, thì chỉ cần lắng hết tất cả vọng tưởng tức là định, định rồi phát tuệ. Đó là một lẽ phi thường. Phi thường mà rất bình thường.
Người ta cứ nghĩ tánh giác và mê lầm, hai cái khác nhau. Nhưng thật ra không khác. Mê vì loạn, bây giờ bỏ hết loạn thì trở thành giác.


 Giống như nước trong là từ nước đục lóng xuống mà có. Như chúng ta thấy sóng biển vỗ ầm ầm, chú ý nhìn từng lượn sóng nổi lên lặn xuống, nổi lên lặn xuống. Lúc đó biển chỉ bằng lượn sóng, vì ta thấy có lượn sóng thôi. Nếu không chú ý vào từng lượn sóng thì thấy biển mênh mông. Tâm mình cũng vậy, khi ta chạy đuổi theo những lăng xăng thì thấy tâm chỉ là cái vui buồn thương ghét. Bao giờ lặng hết những lăng xăng kia ta mới thấy nó thênh thang, bình ổn.

Có cái chân thật mà chúng ta cứ đuổi theo cái hư dối và hài lòng thỏa mãn với nó, thì đáng thương không? Với mình, thấy không đáng thương vì ta đang giãy giụa trong đó. Với Phật, Ngài thấy thật đáng thương, cho nên Phật thương chúng sanh là vậy. Vì thế đạo Phật lấy giác ngộ làm gốc, xem phương tiện không quan trọng. Chừng nào tìm ra cái thật của mình, chỉ cho mọi người cùng tìm được, đó mới là trên hết, là tối quan trọng trong kiếp sống con người. Hiểu rồi mới thấy giá trị của đạo Phật, không hiểu tu Phật lâu dễ thấy chán.

Đạo Phật dạy phải tu cho tâm lặng xuống, bao nhiêu phiền não lắng sạch, chừng đó trí tuệ phát sáng, mới giác ngộ. Tu theo đạo Phật là đi trên con đường giác ngộ, người không giác ngộ không thể gọi là tu theo đạo Phật. Như vậy tu theo Phật khó hay là dễ, mau hay chậm? Đa số ai cũng bảo khó. Phải chi bảo chúng ta cầu thần thánh ở đâu đến giúp thì khó, đằng này Phật dạy bỏ những niệm lăng xăng, là quyền của mình, có ai rầy phạt đâu, tại sao lại khó?

Trong kinh Phật có nói: "Sự tu hành nếu thấu suốt được rồi, thấy dễ như trở bàn tay, không có gì khó". Đó là điều thứ nhất. 

Thứ hai, tu Phật mau hay chậm? Trung Hoa có kể câu chuyện về chú đồ tể, làm thịt heo bán. Hôm đó được Thiền sư chỉ dạy, bỗng dưng chú giác ngộ, làm bài kệ:

Tạc nhật Dạ-xoa tâm,
Kim triêu Bồ-tát diện.
Dạ-xoa dữ Bồ-tát,
Bất cách nhất điều tuyến.

Nghĩa là:

Ngày hôm qua tâm Dạ-xoa,
Bữa nay mặt Bồ-tát.
Bồ-tát với Dạ-xoa,
Không cách một đường tơ.

Giác là Bồ-tát, mê là Dạ-xoa. Ngày hôm qua mình thấy thân này thật, vọng tưởng thật, đó là Dạ-xoa. Bữa nay biết thân này giả, vọng tưởng hư dối, liền thành Bồ-tát. Như vậy Bồ-tát với Dạ-xoa cách bao nhiêu? Một sợi tơ. Như tay tôi úp xuống là úp, lật lên là ngửa, chỉ một cái xoay thôi.

Mê cũng mình mà giác cũng mình, chỉ chuyển cái tâm. Cho nên đường đạo rất gần, rất ngắn, chỉ tại ta lơ mơ, cứ thả trôi hoài nên kéo dài tới vô số kiếp mới thành Phật. Bây giờ chúng ta tỉnh giác, giả biết giả không nghi ngờ, chắc chắn sẽ mau đạt đạo. Đó là điều tất cả Phật tử nên nghiền ngẫm mới thấy giá trị của người tu Phật. 

Đức Phật đã nói: "Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành". Ai cũng có Phật tánh hết, chỉ khác nhau ở chỗ mê với giác thôi. Nếu trên đường tu chúng ta nỗ lực tiến tới thì con đường Phật đạo không xa. Nói nỗ lực chớ thật ra không có gì phải nỗ lực. Chỉ cần đổi cái nhìn thôi, thấy giả với thấy thật có tốn bao nhiêu mồ hôi đâu. Vậy mà chúng ta làm không nổi, thật cũng không biết nói sao!

Phật đạo là con đường hết sức ngắn, hết sức gần. Nhưng vì chúng ta chưa nỗ lực, chưa quyết tâm nên lận đận lao đao, chìm nổi trong vòng luân hồi không có ngày ra. Đó là tại vì mình không can đảm. Nếu can đảm đổi cái nhìn thì mê biến thành giác ngay, không có gì xa lạ hết. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói: "Có một trăm chúng sanh thì có một trăm ông Phật", đâu có lỗ, đâu có thiệt thòi gì. Một trăm chúng sanh bị nhìn, nó mất thì một trăm ông Phật đang giác hiện ra.

Vọng tưởng dấy lên ta nhìn nó, biết là vọng tưởng không theo. Chú khác dấy lên cũng thế. Ngồi một giờ thấy một trăm lần như vậy cũng hoan hỷ như thường, bữa nay mình thắng trận chớ không thua. Ngày xưa vọng tưởng ta lầm cho là tâm mình, bây giờ vọng tưởng biết vọng tưởng, đó là đã thắng nó rồi. Ta điểm mặt nó, nó đâu còn quyền làm chủ mình nữa. Cho nên thấy được vọng tưởng là từng bước ta đang chiến thắng, đừng buồn, đừng nản. Đó là điều thứ nhất


.
Thứ hai, quí vị nhớ người tu thiền lâu hay quên, nhưng đừng sợ điên. Quên là vì chúng ta không muốn nhớ, chớ không phải quên của người điên. Pháp tu này nhẹ lắm, chỉ buông thôi, không kiềm chế nên không sợ điên. Tôi thường ví dụ, như sáng chúng ta đi chợ định mua mấy món đồ. Hồi khởi sự đi tính năm bảy món. Từ nhà ra chợ hơi xa một chút, trong đầu lại không muốn nhớ, nên tới chợ quên món này, món khác. Quên là tại vì mình không muốn nhớ. 

Cũng vậy, vọng tưởng dấy lên ta buông, buông riết phải quên thôi. Đó là một lẽ thật. Nhiều người không biết hoảng sợ, nói sao năm nay tôi ngu quá. Tưởng thế nên hết dám tu. Đầu đuôi gốc ngọn của sự tu rõ ràng như vậy. Hiểu rồi trên đường tu quý vị yên lòng, không có gì khó khăn. 

Quý vị nghe rồi khéo nhìn, khéo ứng dụng sẽ có lợi lạc lớn. Nếu nghe mà không thực hành thì việc tu không tiến bước nào. Đó là điều đáng buồn. Người nào ứng dụng được, tôi tin rằng trên đường tu vị đó sẽ có bước tiến nhiều hơn mình mong mỏi. Đó là những lời tha thiết của chúng tôi, xin gởi đến tất cả quý Phật tử. 




Thời gian sẽ hàn gắn các vết thương

Phiền não trôi qua. Điều gì làm cho bạn đau xót rơi lụy hôm nay sẽ sớm lùi vào dĩ vãng và biến tan trong quên lãng. Bạn có thể sẽ còn nhớ rằng bạn đã có khóc, nhưng chắc bạn sẽ không còn nhớ mãi điều gì đã làm bạn khóc.


Chúng ta đang trưởng thành, và chúng ta đang trải qua một kiếp sống. Nếu tại sao thao thức suốt đêm trường để than khóc một biến cố bất hạnh xảy đến ngày hôm trước, hay tại sao ôm ấp một mối hận thù đối với người nào và tại sao tiếp tục để cho những tư tưởng tương tợ tự do gây xáo trộn trong tâm.

Chúng ta có thể bị cơn giận dữ lôi cuốn đi xa và về sau lấy làm kinh ngạc thấy rằng chính ta là người nổi giận. Đã ngạc nhiên, ắt chúng ta có thể nhận thức rằng chúng ta đã phung phí biết bao thì giờ và năng lực, rằng chúng ta đã tự tạo cho mình bao nhiêu bất hạnh, trong lúc mà ta có thể chận đứng nó và bắt đầu nghĩ đến việc khác.

Dầu phiền não như thế nào, dầu lo âu sầu muộn ra sao, thời gian sẽ gắn liền những vết thương. Nhưng, trong hiện tại, chắc chắn phải có một điều nào mà ta có thể làm được cấp thời để khỏi bị tổn thương. Tại sao chúng ta lại để cho người khác và phiền não làm giảm suy năng lực và làm cho ta bất hạnh? Câu giải đáp là, lẽ dĩ nhiên, không phải người khác và phiền não mà chính ta đã làm cho ta bất hạnh.

Bạn có thể gặp một vài bực dọc trong sở hay ở một nơi nào khác mà bạn làm việc, không nên mang theo, hay kéo dài những bực dọc ấy về đến nhà và như vậy tạo không khí nặng nề trong gia đình.

Bạn phải nhận thức rằng có một phương thuốc trị liệu hay một phương cách để chấm dứt những vấn đề phiền phức ấy. Đó là phải thoát ra khỏi những ham muốn ích kỷ và vô trật tự của chúng ta và tận diệt mọi hình thức hỗn loạn và vô minh.

Mỗi khi ta không tìm ra giải pháp cho một vấn đề, thường ta có khuynh hướng tìm nơi để đổ lỗi, một người nào mà ta có thể trút hết gánh nặng tội lỗi. Chúng ta không sẵn sàng chấp nhận những thiếu kém của mình. Chúng ta cảm thấy rằng đổ lỗi cho người khác và nuôi dưỡng mối căm thù là dễ dàng hơn. Trong thực tế vài người trong chúng ta đã làm như vậy. Đó là thái độ hoàn toàn sai lạc. Không nên phiền hà hay giận dỗi ai khác.

Chúng ta phải hết sức cố gắng, tận dụng khả năng, và trầm tĩnh giải quyết những vấn đề của chúng ta, phải sẵn sàng đối phó với bất luận khó khăn nào mà ta gặp phải trên đường đời.

SƯU TẦM




  BUÔNG!

Buông tất cả sẽ được tất cả.

Buông tham đắm sẽ được tự tại,

Buông thù hận sẽ được an lành,

Buông si mê sẽ được sáng suốt,

Buông danh lợi sẽ được thanh nhàn,

Buông đấu tranh sẽ được bình yên,

Buông ích kỷ sẽ được hạnh phúc.

Buông vọng chấp sẽ được bồ đề.

Buông tất cả, Niết Bàn Cực Lạc tại thế gian.

VIÊNPHỤNG
CANA DA  (ngày 7.10.2010)

 

LỜI DẠY ĐỨC PHẬT
NHẪN (CAO HUY THUẦN)

Ý NGHĨA CUỘC SỐNG
CHUYỆN MỘT TÁCH TRÀ THIỀN

LÀM SAO TU THEO ĐỨC PHẬT?
TÁM ĐIỀU NGƯỜI TRÍ CẦN BIẾT RÕ.(PHTQ 16)

Thursday, June 14, 2012

***Sự Báo Hiếu Theo Quan Niệm Ðạo Phật


HT Thích Thiện Hoa
 Ý Nghĩa Ðứng Ðắn Và Ðầy Ðủ Của Sự Báo Hiếu Theo Quan Niệm Ðạo Phật  
Tất nhiên sự báo hiếu không những chỉ nhắm vào một lễ Vu Lan.  Không phải mỗi năm chỉ tổ chức một lễ Vu Lan, là đã tự cho mình là người con chí hiếu vì đã làm đầy đủ hiếu đạo.  Như trên đã nói, công ơn cha mẹ rộng như trời bể, làm con suốt đời báo ơn cha mẹ vẫn chưa vừa. Nhưng trong lúc báo hiếu, phải có quan niệm sáng suốt, đúng đắn mới thật có lợi ích và hiệu quả.  Báo hiếu có nhiều cách, nhưng không ngoài hai phương diện: vật chất và tinh thần. 

1. Báo hiếu về vật chất: Người Phật tử phải hầu hạ vâng thờ, thay làm các việc nhọc săn sóc miếng ăn thức uống, áo quần, chiếu giường, chỗ nghỉ ngơi, không để cho cha mẹ thiếu thốn, lo nghĩ.  Song người Phật tử phải sáng suốt trong khi báo hiếu, không nên quá chiều theo ý muốn của cha mẹ mà tạo những nghiệp dữ, như sát nhân, hại vật, gây tội lỗi để làm cho cha mẹ sung sướng trong vật chất. Làm như thế không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu, vì đã gây tạo tội lỗi thêm cho cha mẹ và cho mình.  Vả lại, báo hiếu về vật chất, dù đầy đủ cho mấy đi nữa, cũng chẳng qua làm việc cho cha mẹ được vui vẻ thỏa mãn trong một kiếp hiện tại mà thôi. Cái vui vật chất là vui giả tạm, vui trong vòng sanh tử luân hồi. Vậy sự báo hiếu về vật chất chưa phải là đủ. 

2. Báo hiếu về tinh thần: Người Phật tử phải tiến lên một tầng nữa, là lo báo hiếu về tinh thần.  Báo hiếu về tinh thần là làm sao cho tinh thần của cha mẹ được nhẹ nhàng, cao thượng và đi dần đến chỗ giải thoát.  Phật tử phải khuyên cha mẹ tin nhơn quả tội phước và quy y Tam Bảo, bố thí phóng sinh, niệm Phật , làm các việc lành, giữ giới và tu nhơn giải thoát. Có như thế, thì không những trong hiện tại cha mẹ được yên vui, thanh tịnh và đời sau cũng được nhiều phước báo, và sinh trong cảnh giới sáng sủa nhẹ nhàng. 

Quyết Nghi 

1. Có người nghi: Chư Tăng chỉ tụng kinh chú nguyện làm sao vong linh được siêu độ?  

Ðáp: Tinh thần của người ta rất mạnh, mỗi khi chúng ta tập trung tư tưởng, chăm chú vào một việc gì, thì sẽ thấy sức mạnh của nó phi thường.  Kinh nói: "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện"; nghĩa là: để tâm định lại một chỗ, thì không việc gì làm không thành tựu. Chư Tăng trì trai, giữ giới thanh tịnh tu hành, tinh thần phải sáng suốt, mạnh mẽ hơn.  Như thế mà các vị lại tập trung tư tưởng, thành tâm chú nguyện thì vong linh quyết nhờ sức mạnh của chư Tăng mà được siêu sanh.  
Lại nữa, Phật và Bồ Tát sẵn có làng từ bi tế độ, thương tất cả chúng sanh như mẹ thương con.  Chúng ta cảm, thì lo gì các Ngài không ứng hiện?  Cũng như mặt trăng luôn luôn sẵn có ánh sáng, nếu nước hồ không xao động và lóng trong , thì trăng kia sẽ chiếu xuống tận đáy hồ. 

2. Có người hỏi: "Y như lời Phật dạy trong kinh Vu Lan, thì phải sắm cho đủ các thứ thực phẩm và vật dụng quý báu để cúng dường chư Tăng.  Như thế đối với những người nghèo hèn thì sao? 

Ðáp: Bổn ý của Phật dạy chúng ta là phải chí thành và tận lực trong việc lo sắm đủ những thứ ấy. Ðối với những kẻ nghèo khó, nếu họ đã tận lực mà chỉ mua được một nén hương hay đĩa quả, nhưng có lòng chí thành, thì cũng đủ lắm rồi. Trái lại, nếu có người sắm dư giả các vật mà chưa chí thành, thì cũng chưa có thể gọi là đầy đủ. 
 

3. Có người hỏi: Ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, tự mình có thể cứu vớt cha mẹ được, cần gì phải nhờ đến chư Tăng.  Cũng như các ông quan lớn trong xứ, đủ thế lực, có thể cứu bà con có tội được rồi, cần gì phải nhờ đến các quan khác?

Ðáp: Bà Thanh Ðề bị tội khổ, do trước kia tâm bà gây nên. Hôm nay nhờ Ngài Mục Kiền Liên là con hiếu thảo, sắm các lễ vật cúng dường Phật , Tăng, lúc ấy bà sanh lòng hoan hỷ cũng muốn cúng dường Phật , Tăng.  Do đổi niệm bỏn sẻn, trở lại tâm rộng rãi, mà bà được giải thoát.  Nếu như chỉ nhờ đức chúng Tăng mà tâm bà không hoan hỷ mở rộng, thì cũng khó mà cứu vớt được. 

  Kết Luận  Chúng ta đã rõ biết hiệu quả tốt đẹp của lễ Vu Lan. Vậy chúng ta nên noi theo gương của Ngài Ðại hiếu Mục Kiền Liên mà báo hiếu, thì cha mẹ hiện tại và bảy đời trước đều được thoát khổ ngạ quỷ u đồ, và hưởng vui giải thoát. 
Chuyện "Mục Liên, Thanh Ðề" không có gì là hoang đường, huyền bí, mà là một hiện tượng có thể giải thích được. Ðó là do lòng hiếu thảo chí thành của người con và công đức trì trai, giữ giới thanh tịnh trong ba tháng hạ, thúc liễm tu hành của chư Tăng, thành tâm chú nguyện, nên có sức mạnh cảm thông và kích thích đên tâm hồn người đau khổ, làm cho họ thức tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện.
Nhờ sự chuyển hướng của cái tâm này, mà họ thoát khỏi sự hình phạt đau khổ mà trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra. Trong kinh có nói: "Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp". Kìa, như nhà thôi miên học, chỉ tập trung tư tưởng mà còn có thể xoay chuyển sự vật được , huống chi sự chú nguyện của chư Tăng, là kết tinh của bao nhiêu phước đức trí huệ, thanh tịnh, lại không thông cảm đến người ở chốn tội khổ hay sao?
Nghiệp lực sâu thẳm vô biên, thì tự lực và nguyện lực cũng dõng mãnh vô lượng, có thể chuyển được tâm người tạo nghiệp, đập vỡ được lao ngục xiềng xích khổ hình ở chốn u đồ.  Pháp Vu Lan nầy chính là phương pháp thần diệu để cứu rỗi vong linh cha mẹ trong cảnh khổ tối tăm.  Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng:  báo hiếu không phải chỉ đợi khi cha mẹ đã khuất bóng và mỗi năm chỉ một lần cử hành lễ Vu Lan là đủ.  Người con chí hiếu, bao giờ cũng vui sướng khi thấy cha mẹ còn ở bên mình và tận lực phụng dưỡng cha mẹ, để cha mẹ được thảnh thơi về cả hai phương diện vật chất và tinh thần.  Như thế mới khỏi hối hận và than thở như 
Thầy Tử Lộ:  "Mộc dục tịnh nhi phong bất đình !  Tử dục dưỡng nhi thân bất tại". 




Hạnh phúc gia đình.

Trong cuộc hôn nhân chơn thành, người đàn ông và người đàn bà nghĩ đến tình đồng đội nhiều hơn là cho riêng mình. Đây là sự phối hợp quyền lợi rất phức tạp, chằng chịt lẫn nhau, và một sự đương đầu với các hy sinh vì lợi ích chung. Do sự cố gắng, cả hai tạo cho mình các cảm thọ an toàn và thỏa mãn. Phần lớn các phiền não và lo âu xảy ra giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, giữa thân bằng quyến thuộc đều do hiểu biết sai lầm và thiếu kiên nhẫn. 

Chồng không nên đối xử với vợ như người làm trong nhà. Mặc dầu chính mình là người "tạo nồi cơm" cho gia đình, chồng phải giúp vợ tạo hòa khí trong nhà. Đàng khác, người làm vợ không nên càu nhàu hay than phiền chồng suốt ngày, mỗi khi có điều sơ sót, cũng không nên nghi kị chồng. Nếu chồng có một vài khuyết điểm vợ phải có thể sửa đổi bằng cách êm ái và dịu dàng nhắc nhở. Một người vợ phải biết khoan dung, chịu đựng nhiều việc mà không làm phiền đến chồng.

Hôn nhân là một phước lành, nhưng nhiều người đã làm cho đời sống gia đình trở thành một tội khổ vì thiếu hiểu biết, thiếu khoan hồng, và thiếu kiên nhẫn. Cảnh nghèo không phải là nguyên nhân chánh trong một gia đình bất hạnh. Vợ và chồng phải biết chia xẻ với nhau những ngọt bùi và cay đắng của đời sống hằng ngày. Hiểu biết nhau là bí quyết của một gia đình hạnh phúc.


Chấp nhận chỉ trích.
Dịu ngọt là bịnh, cay đắng là liều thuốc. Những lời ca ngợi tựa hồ như kẹo, ăn nhiều quá sanh ra bịnh. Lời chỉ trích giống như viên thuốc đắng, hay mũi thuốc chích làm đau, nhưng chữa hết bịnh. Chúng ta phải có can đảm tiếp nhận mọi chỉ trích và không nên sợ nó.

"Trạng thái xấu xa mà ta nhìn thấy nơi người khác
Chỉ phản ảnh bản chất của chính ta".

Mỗi người nhìn vào thế gian loài người và sự vật cũng như nhìn vào mặt gương, thấy hình ảnh của chính mình trong đó.



MẸ TÔI

Mẹ tôi trong cánh áo nâu
Đồng khô nước cạn dãi dầu nắng mưa
Mạ xanh mong lúa được mùa
Lần tay gốc rạ sớm trưa mặc lòng

Mẹ là cây lúa Thần Nông
Trải sương hứng gió vun trồng đất khô
Mẹ như thân vạc cánh cò
Đồng sâu lặn lội ruộng bờ ao mương

Mẹ như hoa gạo trên đường
Nở ra bát ngát phấn hương một trời
Mưa phùn trong chiếc áo tơi
Đến mùa gió bấc nổi trôi thân gầy

Mẹ như cánh hạc gọi bầy
Miếng ngon mẹ nhịn đắng cay mẹ gồng
Cả đời bươn chải long đong
Nuôi con khó nhọc mặn nồng ấp yêu

Mẹ như bếp lửa nương chiều
Mùi khoai bắp nướng sáo diều ru êm
Mẹ như trăng sáng bên thềm
Câu chuyện cổ tích bà tiên hiện về

Mẹ là xuyến bạc sao khuê
Mẹ như cánh gió đồng quê trưa hè
Đêm khuya mẹ đón cha về
Hương tàn nến lụn tiếng ve rầu rầu

Mẹ ngồi vá tấm áo nâu
Chắt chiu mũi chỉ đường khâu quên mình
Mẹ ru câu hát tang tình
Ru sương bạc trắng ru tình nước non

Mẹ tôi như tấm lòng son
Hóa thân là Phật nuôi con một đời
Đêm rằm vẳng tiếng chuông rơi
Câu kinh mõ tụng như lời mẹ ru

Tôi ngồi nhớ mẹ thiên thu.

Xuân Mai

 Kính mời xem những bài viết theo link:
 
LỜI DẠY ĐỨC PHẬT VỀ KHỔ ĐAU VÀ HẠNH PHÚC

CUỘC ĐỜI VÔ GIA CƯ

TU TÂM DƯỠNG TÁNH

THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC-PHẬT PHÁP KHÓ NGHE