Saturday, May 19, 2012

*** SÁCH TẤN TU (HT THÍCH THANH TỪ)

HT THÍCH THANH TỪ

Mỗi năm tất cả người tu chúng ta, ít nhất phải có một lần ôn lại chuyện cũ và chuẩn bị cho việc mới. Nói một cách dễ hiểu, là qua một năm, những cái dở chúng ta phải chừa, chuẩn bị cho năm tới được tốt được sáng sủa hơn, đó là bổn phận của người tu. Ngài Trần Tôn Túc là đệ tử của tổ Hoàng Bá, có nói : "Việc lớn (Giải thoát luân hồi sanh tử. ) chưa sáng như đưa ma mẹ. Việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ."

Câu này, tất cả Tăng ni Phật tử phải nghiền ngẫm, ứng dụng tu tập để không vấp phải lỗi lầm, cho xứng đáng là một người tu. Tất cả người tu, ai cũng mong một ngày nào đó chúng ta sẽ sáng được
"việc lớn". 

Nếu "việc lớn" mà chưa sáng thì chúng ta phải cố gắng nỗ lực tiến tu để được sáng. 
Nếu "việc lớn" tuy đã sáng không phải ngang đó dừng lại mà còn phải tiếp tục huân tu cho đến viên mãn.
Đó là điều mà hôm nay tôi muốn nhắc cho quý vị rõ. Cổ đức có nói :
Chưa đến "vô tâm", cần phải đến. Đã đến vô tâm, "vô" cũng thôi.

Khi chưa được "vô tâm", chưa sáng được "việc lớn" chúng ta phải nỗi lực tiến tu để được sáng, để được vô tâm, nhưng khi đã được "vô tâm" rồi, chữ "vô" cũng phải buông luôn. Chớ không phải đến chỗ "vô tâm" rồi ngang đó là đủ, là xong. Vậy để khai triển cho sáng tỏ nghĩa này, tôi xin tuần tự nêu từ cái dở đến cái hay, để tất cả Tăng Ni và Phật tử kinh nghiệm ứng dụng tu tập khỏi sai lầm và được kết quả tốt đẹp.

Bịnh thứ nhất của người tu Phật hiện nay là khinh lờn; đa số người tu khi mới vào đạo, cư sĩ cũng như xuất gia, lúc đầu phấn khởi, hăng hái, thấy chỗ đạt đạo ở trước mắt, không xa. Nhưng, qua năm thứ hai, năm thứ ba dần dần giảm nhuệ khí, không còn phấn khởi hăng hái, bắt đầu khinh lờn lơi lỏng. Người xưa thường nói: "Nhứt niên Phật hiện tiền, nhị niên Phật thăng thiên". 

Năm đầu mới vào đạo thấy đạo không khó, nhưng qua năm thứ hai, năm thứ ba hay nhiều năm nữa tinh thần phấn khởi hăng hái của buổi đầu dần dần xuống dốc, rồi càng ngày càng buông lung phóng túng. Trong giới tu sĩ
ban đầu xuất gia, ai cũng có ước nguyện tu phải giải thoát trong hiện đời. Nhưng, xuất gia được vài ba năm, hơi quen, thỉnh thoảng cũng có chuyện hơn, chuyện thua, chuyện phải, chuyện quấy, yếu từ từ. Yếu ít ít thì còn đỡ, có nhiều người quá yếu, yếu đến đổi bị rầy bị chê, đó là do không giữ được tâm ban đầu. Nếu giữ được tâm ban đầu, thì đạo không xa, giải thoát gần kề. Quên tâm ban đầu đạo càng ngày càng xa, giải thoát càng ngày càng khó. 

Trong kinh A Hàm, Phật nói người mới xuất gia giống như cô dâu mới về nhà chồng; đối với cha mẹ chồng, chị chồng, em chồng đều quí đều nể, khép nép cung kính. Nhưng ở đôi ba năm, có con rồi, đối với cha chồng thì coi không ra gì, mẹ chồng thì không còn sợ nữa, chị chồng em chồng thì ăn hiếp luôn, cả ông chồng cũng không nể. Người tu hiện tại cũng vậy, mới vào đạo cạo tóc, đối với Hòa thượng, Thượng tọa thì khép nép cung kính, các sư huynh thì nể nang dễ dạy.

**Bịnh thứ nhất là khinh lờn. Tu đến một năm, hai năm, ba năm; thấy Hòa thượng, Thượng tọa, có khi quên cúi đầu, cho đến sai bảo cũng không thèm làm nữa. Đó là cái bịnh khinh lờn, nên tu không tiến. Vì vậy, mà Phật dạy chúng ta phải nhớ tâm ban đầu. Trong kinh Phật dạy các thầy Tỳ kheo mỗi sáng phải nhớ rờ đầu mình một lần, rờ để nhớ đầu mình trọc, không còn nghĩ tới chuyện thế gian nữa. Phật dạy chúng ta trên đường tu đừng có niệm khinh lờn. Nếu có niệm khinh lờn thì ban đầu tu tiến bộ, nhưng sau rồi lùi, lùi cho tới không còn tu được nữa. Đó là bịnh thứ nhất của người tu.

**Bịnh thứ hai là tự mãn. Tự mãn là được ít cho là đủ. Có những người mỗi ngày tụng kinh được hai thời công phu, học được ít bộ kinh, coi như đã đủ cho mình làm Phật sự, hài lòng với cái mình đã học đã được, cho đó là sở trường mà không cố gắng nỗ lực để tiến. Như vậy, tự ghép mình ở trong phạm vi hẹp hòi để rồi cả một đời tu không tiến bộ. Thiền sư Thanh ở Dũng Tuyền, Ngài nói với chúng rằng: "Tôi ở trong đây 49 năm còn có khi tẩu tác, các ông chớ nói to, người kiến giải thì nhiều, người hành giải thì ít, muôn người không có một. Kiến giải ngôn ngữ cần biết suốt, nghiệp thức chưa hết sẽ bảo đi trong luân hồi vậy". Ngài là một thiền sư đã ngộ đạo, Ngài đã ở 49 năm trên núi Dũng Tuyền, còn có khi tẩu tác, tức là tâm chạy bậy như trâu hoang. Huống là người mới vào đạo vài ba năm, tự thấy mình đã xong việc, ăn to nói lớn, tưởng mình là Thánh, đó là điều không nên. 

Ngài nói: "Người kiến giải thì nhiều", tức là người học hiểu thì nhiều mà hành thì ít, tuy muôn người hiểu chưa có được một người hành. Ngài nói vậy không có nghĩa cấm không cho người tu có kiến giải. Ngài dạy: Kiến giải, ngôn ngữ cần phải biết suốt, phải thông, nhưng nếu thức tình chưa hết, thì sẽ đi trong luân hồi. Người xưa biết được bịnh của người sau, nên nhắc nhở cho chúng ta biết, trên đường tu không phải đơn giản một sớm một chiều là xong việc, không phải học hiểu là rồi, mà còn phải hành phải sống được, đó mới là điều thiết yếu. Hiện tại, có một số Tăng Ni học hiểu, hiểu rồi cứ ăn to nói lớn, tưởng đó là hay, nhưng không ngờ vẫn còn thức tình, khi chết sẽ đi trong luân hồi như bao nhiêu người chưa tu khác. Cho nên quí vị phải xét nét, cố gắng vượt qua lỗi đó. 

**Bịnh thứ ba là bịnh thụ hưởng. Có một số người, tu được năm năm, mười năm, thọ giới cụ túc làm trụ trì, tự coi mình xứng đáng là người lãnh đạo. Từ đó sanh ra thụ hưởng, nghĩ tới ăn chơi vui đùa, chạy theo dục lạc, mà không nghĩ tới việc tiến tu. Đó là điều rất nguy hiểm cho đạo. Vì chúng ta tu cốt là dứt sạch phiền não, mà phiền não thì phát xuất từ dục lạc, nếu còn hưởng thụ dục lạc thì phiền não làm sao mà sạch được! Vậy nên người nào tu hành mà nặng thụ hưởng, người đó thế nào rồi cũng bị dục lạc làm chủ; mà dục lạc làm chủ thì đời này không thể tiến được, mai kia cũng khó mà trả nợ áo cơm. Cho nên:

                    Học đạo chẳng thông lý
                    Đem thân đền tin thí
                    Trưởng giả tuổi tám mốt
                    Cây kia chẳng sanh nhĩ

Bài kệ này thuật lại việc một Tỳ kheo tu hành tương đối tốt, có một trưởng giả thấy vậy quý kính, thường ngày cúng dường y thực đầy đủ. Nhưng vị Tăng chưa sáng được "việc lớn", sau khi chết, thân trở lại đền nợ thí chủ bằng cách "tái sanh thành một thân cây", mỗi ngày mọc nấm cho trưởng giả ăn, tới khi ông trưởng giả tám mươi mốt tuổi, nấm mới hết mọc. Câu chuyện cho thấy rằng, nếu tu mà không sáng được đạo, không dứt được thức tình dù có cố gắng cũng không giải thoát được. Nếu thụ hưởng nhiều, thì họa cũng lắm, như vị Tỳ kheo này tu tốt nhưng không sáng được lý đạo vẫn phải tái sanh thành hoa báu để trả nợ áo cơm. Đó là trả nợ nhẹ. Nếu chúng ta nợ nặng hơn thì phải mang thân xấu xí có lông có sừng đi trong lục đạo để trả nợ cho đàn na thí chủ. 

"Vì vậy, tất cả người tu chúng ta phải nhớ rằng không phải chỉ tụng một hai thời khóa công phu, hay chỉ thành một ông trụ trì tu sơ sài ngoài hình tướng là xong việc tu".

Mà phải thấy được đạo, sống được với đạo, mới mong thoát ly sanh tử. Đó là điều thiết yếu mà tôi mong tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử phải nhớ lấy. Đừng có hài lòng, đừng có tự mãn, để rồi phải chiêu họa về sau.

Bây giờ trở lại "việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ", quí vị thường thấy khi đưa đám ma mẹ, trên gương mặt của những người con rất âu sầu áo não, họ thật buồn bã khổ đau. Cũng vậy, đối với người tu chưa sáng được "việc lớn", ngày nào, tháng nào, năm nào, cũng phải ôm ấp lòng thao thức, niệm niệm quyết chí tu hành. Điều gì chưa hiểu phải học cho hiểu, lý nào chưa thông phải nghiên cứu cho thông, như vậy khả dĩ còn tiến đuợc.

Nếu "việc lớn" chưa sáng mà cứ chơi hết ngày hết tháng, thì không mong gì đạt được sở nguyện. Thế nên, "việc lớn" chưa sáng lúc nào cũng phải ôm ấp lo buồn, phải nỗ lực, phải cố gắng để đạt cho được đến kỳ cùng. Như vậy, mới xứng đáng một người xuất gia tu Phật. Nếu không như vậy thì uổng một đời tu, lại còn làm cho người đời chê cười, khinh bỉ giáo lý cao siêu của Phật. Chúng ta không có quyền nghĩ rằng mình tu lai rai để đời sau tu nữa mà phải quyết chí tu giải thoát trong đời này. Nếu chưa xong, ít ra tập khí cũng phải mòn rồi đời sau tiếp tục tu một cách dễ dàng. Xưa, có những thiền sư mỗi khi chiều xuống, xét mình tu chưa tiến, các Ngài rơi lệ. Còn chúng ta mỗi khi chiều xuống thì cứ cười hỉ hạ, mặc tình thời gian trôi qua... Tại sao các Ngài
không tiến thì khóc, còn chúng ta không tiến lại cười? Tâm niệm người xưa và tâm niệm người nay khác nhau ở chỗ đó.

Người xưa quyết chí cầu giải thoát, hạnh nguyện chưa xong thì không vui, đã không vui thì đâu có thảnh thơi cười đùa. Qua một ngày mà không tiến các Ngài thấy đau khổ xót xa đến độ phải rơi nước mắt. Người thời nay, dù không được như người xưa, thì ít ra một ngày qua, thấy mình tu không tiến, lòng nao nao, tự trách mình hèn nhát, không gan dạ. Đâu quí vị kiểm lại một năm qua, thấy mình tu tiến nhiều hay ít? Nếu kiểm lại mình tu không tiến được chút nào, thì phải hổ thẹn không an lòng. Tu cốt là phải tiến chứ không phải đứng một chỗ, đứng một chỗ có nghĩa là lùi. Huống là có nhiều người lại còn bước lùi nữa, như thế thật là quá tệ ! Qua một năm rồi, xét lại không tiến mà vẫn an nhiên vui vẻ, thì e rằng năm tới cũng như năm cũ, rồi nhiều năm và cả cuộc đời tu không tiến bộ.

Do đó, hôm nay là ngày cuối năm, kiểm lại, ai thấy mình không tiến được chút nào, phải tự hổ thẹn. Nguyện năm tới lập lại cuộc đời, không lôi thôi như năm cũ nữa, như vậy mới khả dĩ có điều kiện để vươn lên. Mỗi người chúng ta phải lập nguyện cho mạnh, lập chí cho vững, để năm tới sống xứng đáng là người tu có trọng trách tự giác giác tha. Đó là điều mà tôi mong mỏi nơi quí vị.
"Việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ". Có một số tu sĩ lầm tưởng rằng một khi đạt được lý đạo, ngang đó là thành Phật thành Tổ. Sự thực chưa phải như vậy. Sau đây là bài kệ nói lên ý nghĩa đó:

                    Đốn ngộ tuy đồng Phật
                    Đa sanh tập khí thâm
                    Phong đình ba thượng dũng
                    Lý hiện niệm du xâm.

"Đốn ngộ tuy đồng Phật" nghĩa là chỗ ngộ của Phật và chỗ ngộ của mình không khác. Nhưng "đa sanh tập khí thâm", tức là nhiều đời tập khí của mình sâu dày; hồi xưa tham, sân, si, phiền não nhiều, còn ghi đậm nét ở thói quen. Bây giờ tuy ngộ được lý đạo, nhưng đối duyên xúc cảnh cũng còn tham cũng còn sân cũng còn si, chưa hết. "Phong đình ba thượng dũng", giống như gió đã dừng rồi mà mặt biển sóng vẫn vỗ vào bờ. "Lý hiện niệm du xâm", đối với đạo lý đã thấy được lẽ thật, nhưng mà vọng niệm vẫn còn dấy khởi hoài. Như vậy, đừng tưởng rằng mình ngộ được lý đạo là rồi việc, mà còn phải nỗ lực tiến tu trong tất cả giờ. Khi vọng niệm sạch tâm không còn bị quấy nhiễu, tánh giác không còn bị che mờ, chừng đó mới khả dĩ hợp đạo. Nếu ngang đó mà hài lòng tự mãn là bịnh lớn. Kinh Trung A Hàm có ghi: Một người ngoại đạo tới hỏi Phật:

- Thưa Ngài Cồ Đàm, những đệ tử của Ngài đã ngộ đạo, những người đó có đến Niết bàn hết hay chăng?
Phật trả lời:
- Có người đến Niết bàn, có người không đến Niết bàn.
Người ngoại đạo lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao đã ngộ đạo rồi, có người được đến Niết bàn, lại có người không đến?


Phật ví dụ: Có người bị tên độc bắn vào tay, mời thầy thuốc tới mổ lấy tên ra, khử độc, băng bó kỹ càng, thầy thuốc dặn nên giữ gìn đừng cho nhiễm trùng. Nhưng người đó nghĩ rằng tên độc đã nhổ ra, dùng thuốc khử độc rồi, còn lo sợ gì nữa. Ngang đó tha hồ suông pha ăn, làm; vết thương bị nhiễm trùng, hành hạ rồi chết. Người thứ hai cũng bị tên độc và cũng được nhổ ra khử trùng và băng bó, y sĩ cũng dặn dò như trước. 

Người thứ hai biết giữ gìn, từ khi đó không dám để dơ, để nhiễm trùng, lần lần vết thương kéo da non rồi lành hẳn. Hai người cùng bị tên độc, cùng được mổ lấy tên ra khử độc như nhau. Vậy, tại sao một người chết, một người lành? Cũng vậy, người tu ngộ đạo rồi, mà ngang đó biết nghe lời Phật Tổ dạy lo tiến tu,giữ đạo hạnh, càng ngày càng thanh tịnh trong sáng thì sẽ đến Niết bàn. Còn người ngộ đạo rồi, ngang đó tự mãn, suông pha làm những việc trái với đạo, lần lần bị ô nhiễm rồi thối đọa. Như vậy, qúy vị đừng tưởng ngộ rồi là xong. Bởi vì "đa sanh tập khí thâm", ngộ đạo thì ngộ, mà tập khí vẫn còn nếu mà lân la với thói cũ thì bị nhiễm ô. Nên tu phải hiểu cho thấu đáo điều đó, đừng tưởng ngộ rồi là xong việc. Bởi vậy, nên nói "việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ" là vậy. Đây, tôi dẫn lời của Thiền sư Truyên Sở ở núi Thanh Phong. 

Có vị tăng hỏi:
- Việc lớn đã sáng vì sao như đưa ma mẹ?
Ngài đáp:
- Chẳng gặp gió xuân hoa chẳng nở Đến khi hoa nở lại thổi rơi
Quý vị thấy có giống câu:
- "Chưa đến vô tâm" cần phải đến

Đã đến "vô tâm vô" cũng thôi.
Khi hoa nở, đợi gió xuân thổi cho hoa rụng luôn, mới là xong việc. Người xưa rất cẩn thận dè dặt chỉ dạy cho chúng ta những kinh nghiệm để tu, Ngài Tử Thuần Đơn Hà làm tụng:
                    Gia sơn quy đáo mạc nhơn tuần.
                    Kiệt lực dần thần phụng nhị thân
                    Cơ tận, công vong, ơn nghĩa đoạn
                    Tiện thành bất hiếu xiển đề nhơn.

        Dịch:
                    Gia sơn về đến chớ dần dà
                    Gắng sức sớm hôm dưỡng mẹ cha
                    Cơ hết, công quên ân nghĩa dứt
                    Bỗng thành bất hiếu người xiển đề.

"Gia sơn về đến chớ dần dà", nghĩa là người tu như người trở về quê hương, cái hy vọng thiết tha nhất của họ là về cho tới nhà. Về tới nhà để làm gì? Về tới nhà để "gắng sức sớm hôm dưỡng mẹ cha",
chớ không phải về để chơi. Nuôi dưỡng mẹ cha rồi, nếu mà còn nghĩ mình là con có hiếu, là kẻ có công cũng chưa được nên nói: "Cơ hết, công quên ơn nghĩa dứt", tới đó, cơ phương tiện, công giúp đỡ cha mẹ không còn thấy nữa. Thì "bỗng thành bất hiếu người xiển đề". Tại sao câu kết lạ vậy? Chúng ta thường nghe trong kinh nói xiển đề là người bất tín, tức là không đủ lòng tin, ở đây sao gọi người con bất hiếu là xiển đề? Xiển đề có ba loại:

1. Người phạm tội ngũ nghịch gọi là xiển đề.
2. Người đối với Tam Bảo không có một tí lòng tin cũng gọi là xiển đề.
3. Người như ngu như ngây không còn thấy có Phật ở trên để mà kính, có chúng sanh ở dưới để mà xem thường cũng gọi đó là xiển đề.

Người đối với Tam bảo không còn cung kính là người thấy Phật và chúng sanh bình đẳng nên gọi đó là xiển đề. Cũng như ở trên nói:
                    Cơ hết, công quên ân nghĩa dứt
                    Bỗng thành bất hiếu người xiển đề.

Nếu người tu mà còn thấy mình là người đắc đạo, là người ngộ đạo, thì người đó còn bệnh. Vì ngộ đạo mà còn thấy mình ngộ đạo là còn ngã và ngã sở nên còn kẹt. Người chưa ngộ đạo mà vỗ ngực xưng ta là người thấy đạo ngộ đạo, người đó lại thuộc hạng người lừa thầy dối bạn gạt chúng sanh, làm tổn hại Phật Pháp. Qúy vị nên biết rõ hạng người này. Kinh Kim cang có đoạn: "Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp". Tới chỗ rốt ráo, pháp chân chính còn phải buông xả huống là phi pháp. Lời Phật dạy giống như chiếc thuyền đưa người qua sông, tới bờ rồi thuyền cũng bỏ, như vậy mới xong việc. Còn nếu tu tới đó mà hài lòng tự mãn thì không thể nào tránh khỏi cái lỗi "vác thuyền không lên bờ đi".
Lại cũng một Thiền sư khác; Ngài Thanh Long, nhơn nơi ý này làm một bài tụng:

                    Bần tử dụ trung tằng chỉ chú
                    Linh bình tân khổ uổng ta đà
                    Khúc thùy phương tiện thân phân phó
                    Triết mạc nhơn tuần sử tả khoa.

        Dịch:
                    Trong dụ kẻ nghèo từng chỉ rõ
                    Lang thang cay đắng luống trôi qua
                    Được bày phương tiện vì giao phó
                    Thôi chớ lơ là khiến mất xa.


 

Ngài Thanh Long cũng nhắc chúng ta rằng: "Trong dụ kẻ nghèo từng chỉ rõ". Con người chẳng khác nào kẻ cùng tử trong kinh Pháp Hoa. "Lang thang cay đắng luống trôi qua". Kẻ cùng tử đó trong thời gian lang thang ở xứ lạ quê người, là lúc chịu muôn ngàn cay đắng. Nhưng bây giờ tìm được lối trở về và về đến nhà, vượt qua hết mọi cay đắng rồi, vẫn chưa xong việc mà còn phải: "Được bày phương tiện vì giao phó". Ông trưởng giả dùng phương tiện dẫn dụ kẻ cùng tử để trao sự nghiệp giao kho tàng cho gìn giữ. Vậy mà cũng vẫn chưa xong, còn phải: "Thôi chớ lơ là khiến mất xa". Người con được giao phó phải bảo quản sự nghiệp ông cha được còn mãi mãi.

Dụ chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa dạy rằng: nếu tu đến chỗ "sáng được việc lớn" mà không chịu nỗ lực cố gắng tu nữa thì một ngày nào đó cũng bị rơi vào chỗ tối tăm trở lại. "Sáng được việc lớn" rồi, phải nỗ lực cố gắng cho đến bao giờ viên mãn công hạnh của người tu mới là xong việc. Khi nhắc tới đây, tôi khuyên tất cả quý vị đừng bao giờ cho rằng mình thấy được đạo là xong việc, mà phải hành đạo và hằng sống được với đạo. Người sống được với đạo thì mình và đạo không hai, lúc đó tự mình đã giải thoát, không phải đợi tới khi chết mới giải thoát, thì quá mơ hồ xa xôi. Đó là điểm mà tất cả người tu phải thấy. Không nên hài lòng tự mãn ở cái ngộ cái hiểu của mình, mà phải nỗ lực hằng sống cho được với cái mà mình đã ngộ, thì mới khả dĩ xứng đáng là người cầu giải thoát. Kết luận, tôi xin lập lại:

                    Vị đáo vô tâm tu yếu đáo
                    Ký đáo vô tâm vô dã hưu.

        Dịch:
                    Chưa đến "vô tâm", cần phải đến
                    Đã đến vô tâm, "vô" cũng thôi.

Người tu ở trong hai trường hợp: Nếu còn mù tối, chưa thấy được đạo, phải nỗ lực học hành, tham vấn, tu tập. Khi đến chỗ "vô tâm" rồi, chính "cái vô" cũng phải buông nữa, thì mới đến chỗ mình và muôn vật không hai. Nếu còn thấy "cái vô" thì còn kẹt ở nước "vô sanh của rồng chết". Đó là chỗ mà chúng ta phải biết.

Hôm nay, tôi nhắc lại lời dạy của Ngài Trần Tôn Túc để cho tất cả qúy vị người tại gia cũng như xuất gia tự xét lại mình coi tu có tiến hay không. Nếu tu đã có tiến thì năm tới cũng phải cố gắng để khá hơn. Còn nếu, người nào cảm thấy rằng đã qua một năm mà không tiến chút nào, thì ngang đây chuẩn bị cho năm tới phải nỗ lực phát nguyện mạnh mẽ để tu bù lại những thiếu sót của năm qua, và xứng công trong năm tới. Như vậy mới không uổng công một kiếp tu hành.


HT. Thích Thanh Từ
Viện trưởng Thiền viện Trúc Lâm

Tuesday, May 15, 2012

***PHẬT GIÁO VÀ SỰ THỜ CÚNG







Viên Minh và Trần Minh Tài


Khi thấy Phật tử đến chùa lễ bái, hay những nhà sư đang kính cẩn nghiêng mình trước đài sen trong khung cảnh trang nghiêm, tịch mịch đầy trầm hương nghi ngút, chắc hẳn có người hỏi rằng: 
Phật tử có cầu nguyện hay không? Họ làm gì khi đến chùa? Và thái độ của người Phật tử ra sao đối với sự nguyện cầu?

Trước hết chúng ta phải biết cầu nguyện là gì? Đó là một danh từ có nhiều nghĩa. Trong các tôn giáo tin tưởng và thờ phụng Thượng Đế (mà họ tin là đấng tối cao, toàn năng, toàn thiện, toàn tri đã dựng nên thế gian và được coi là Đấng Tạo Hóa hay Thủy Tổ của muôn loài), cầu nguyện có nghĩa là thỉnh cầu ở nơi Ngài một sự chỉ đạo, hộ trì hoặc cầu xin Ngài ban cho sức khỏe, hạnh phúc, thịnh vượng, bình an và đôi khi xin Ngài tha thứ những tội lỗi đã vi phạm.

Chúng ta có thể nói ngay rằng, vì người Phật tử không tin tưởng nơi thần linh hay bất cứ một đấng quyền uy ban phúc giáng họa nào, nên cầu nguyện cũng không có ý nghĩa như trên. Mặt khác, Phật tử tin tưởng ở nghiệp lực theo đó hạnh phúc hay đau khổ đều là kết quả của hành động, lời nói, ý nghĩ mà mỗi cá nhân tạo ra có ý thức hay có chủ ý. Đó là một luật tự động vận hành chứ không do một ai hướng dẫn, sắp đặt hay an bài. Vì tự động vận chuyển theo một luật tắc nhất định nên nó không thể thiên vị, thương tình hay tội nghiệp mà tha thứ cho những ai vi phạm. 
Cũng theo luật này (nghiệp) tội lỗi không thể được tha thứ bởi một uy lực bên ngoài, mà chỉ được sửa sai bằng tâm hồi đầu hướng thiện. Bởi vì tội lỗi theo Phật giáo không phải gây ra do vi phạm hay bất tuân những quy định của một đấng quyền uy nào, mà chính vì tự mình hành động sai lầm qua thân, khẩu, ý đưa đến ô nhiễm, phiền não và khổ đau cho mình và người.

Như vậy trong Phật giáo không có cầu nguyện theo nghĩa cầu xin được ban ơn, xá tội, vì mỗi người phải chịu trách nhiệm với chính mình chứ không ai khác về những hành động tội, phước, lành, dữ do mình tạo ra. Thế thì người Phật tử làm gì khi đến chùa? Nếu là Phật tử chân chính chắc chắn họ không đến chùa chỉ để cầu nguyện gì đó cho mình.

Chúng ta hãy theo dõi những người Phật tử đến viếng chùa để xem họ hành động như thế nào và ý nghĩa hành động ấy ra sao. Trong Phật giáo không ai buộc Phật tử phải đến chùa vào một ngày nhất định, họ có thể đến lúc nào họ muốn, nhưng phần đông Phật tử đi chùa vào những ngày lễ sám hối, rằm và ba mươi, hoặc những ngày trai giới, vì phần lớn quần chúng thích tập thể hơn là đơn độc. Họ thường mặc áo trắng, lam hay nâu vì đó là những màu sắc tượng trưng cho tinh khiết, giản dị và khiêm nhường. Họ đem cả hương, đèn, trầm và hoa quả, kính cẩn đi vào chánh điện, nơi đó một tượng Phật uy nghi được tôn trí ở chỗ cao trọng nhất và thành kính dâng những lễ vật lên Đức Phật. 
Hình tượng tự nó không phải là vật thờ cúng mà chỉ là hình ảnh tượng trưng cho họ dễ tưởng niệm đến Đức Phật. Thực ra dù có hình tượng hay không họ cũng tôn thờ Đức Phật, hình tượng chỉ có tác dụng giúp họ dễ chú ý và định tâm hơn. Vì thế, tuy dùng hình tượng để thờ cúng nhưng người Phật tử không có thái độ như những tín đồ vật tổ giáo, thờ cúng những vật hay những biểu tượng mà họ cho là linh thiêng có thể chứng giám cho những lời cầu của họ. Nên đạo Phật không phải là tôn giáo chủ trương thờ cúng hình tượng như một số tôn giáo khác.

Một điểm đáng chú ý nữa là người Phật tử lễ bái tượng Phật không có nghĩa là họ tin rằng Đức Phật sau khi nhập diệt vẫn còn hiện diện trên thế gian, để thị hiện trong các pho tượng khiến cho các pho tượng này trở nên linh ứng có thể hộ trì cho những người lễ bái hay quở phạt những người bất tôn kính đối với Ngài. 
Hình tượng chỉ có thể nhắc nhở lại những hình ảnh sống động lúc Đức Phật còn tại thế, như lúc tham thiền nhập định, lúc thành đạo, lúc chuyển pháp luân, lúc nhập diệt v.v. khiến cho người Phật tử có cảm tưởng như Đức Từ Phụ đang hiện diện để sách tấn họ siêng năng tu tập. Cũng vì thế mà việc đắp tượng phải làm thế nào để diễn tả được những đức tính trí tuệ và từ bi... của Đức Phật, nếu không hình tượng có thể làm sai lạc trí tưởng tưởng của người sơ cơ.

Mặc dù Đức Phật đã nhập diệt nhưng đời sống và giáo pháp của Ngài vẫn còn có một ảnh hưởng lớn lao đối với nhân loại ngày nay, ảnh hưởng đó sống động và thực tế đến nỗi người Phật tử có cảm tưởng như Đức Phật còn tại thế, có người muốn biến cảm tưởng đó thành sự thật bằng cách cúng cả vật thực đến Đức Phật mặc dù họ thừa biết rằng Ngài không thọ dụng.

Linh động hóa như vậy rất hữu ích và người Phật tử càng vững tin và tinh tấn trên đường đạo, đồng thời sự thờ cúng càng tăng thêm ấm cúng và trang nghiêm. Đó là một cách để chứng tỏ rằng ảnh hưởng của Đức Phật đối với con người mọi thời vẫn mạnh mẽ không kém thời nguyên thủy.

Theo thông lệ, cúng dường đèn, hương, hoa quả là một hành động tỏ dấu kính trọng tôn thờ hay tri ân chứ thực ra những vật cúng dường ấy tự nó không có giá trị đặc biệt nào. Đi xa hơn những thông lệ ấy, người Phật tử có một thái độ sáng suốt hơn chỉ là thuần hành động thờ cúng. Như khi dâng hoa trước đài sen người Phật tử suy nghĩ đến chân tướng vô thường của vạn hữu qua bài kệ mà họ thường đọc:

Dâng hoa cúng đến Phật đà
Nguyện mau giải thoát sinh, già, khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu.
Tấm thân tứ đại tránh sao điêu tàn.


Bài kệ trên chứng tỏ người Phật tử khi dâng cúng hay tụng niệm không cầu xin được hộ trì hay ban phước, nhưng đến với Đức Phật như người đệ tử kính mến bậc đạo sư và nguyện theo gương Ngài để sớm thoát khỏi khổ ải trầm luân.

Chúng ta nên lưu ý đến sự khác biệt giữa thái độ của một tín đồ thờ thần linh và một người Phật tử khi họ cùng kính cẩn nghiêng mình trước giáo chủ của họ. Trong khi tín đồ thờ thần linh cầu xin được ban phước hay cứu rỗi, nghĩa là đời đời họ muốn làm nô lệ cho thần linh hay thượng đế của họ. Người Phật tử trái lại, kính cẩn tôn thờ Đức Phật chỉ vì Ngài là người đã đi trước, là người hướng đạo, chứ họ không muốn làm nô lệ Ngài. Họ cũng cố gắng để được giải thoát, được chứng ngộ Phật quả như Ngài. Vì vậy tuy tôn kính Đức Phật nhưng người Phật tử vẫn được quyền bình đẳng với Ngài trong lãnh vực giác ngộ.

Chúng ta hãy tạm lấy so sánh giữa chế độ dân chủ ngày nay và chế độ quân chủ xưa kia để làm thí dụ. Trong chế độ quân chủ mọi người dân là con cái hoặc nô lệ của vị đế vương. Họ phải tuân phục mọi phán xét, thưởng phạt của vua chúa, vì thế "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Nhưng trong chế độ dân chủ thật sự, mọi người dân đều có quyền bình đẳng, dù là tổng thống hay thủ tướng cũng là một công dân như bao người khác. Người dân kính trọng vị nguyên thủ quốc gia vì vị này thay thế họ để lãnh đạo, để lo việc chung. Và tất cả mọi người dân đều có thể trở thành nhà lãnh đạo nếu họ có đủ tài, đủ đức và những điều kiện cần thiết để trở thành vị nguyên thủ.

Bình đẳng và dân chủ hơn, Đức Phật dạy rằng: Không nên tôn kính Ngài bằng cách cúng dường lễ bái. Dù cúng dường bằng những trân châu quý báu cũng không phải là cách tôn kính cao thượng. Phải thực hành theo pháp mà Ngài đã chứng ngộ và chỉ bày để sớm được giải thoát và đạt đến quả vị như Ngài.

Thật hiếm có một vị giáo chủ nào lại không muốn được tôn trọng và chỉ muốn học trò sớm ngang hàng với mình. Người Phật tử chân chính hẳn phải biết như vậy để không phụ lòng từ ái của Đức Phật, không cố chấp vào những hình thức lễ bái mà phải tự tu sửa hầu một ngày kia được giải thoát như Ngài.

Tóm lại, tất cả mọi hình thức thờ cúng tưởng niệm của người Phật tử không phải để cầu xin Đức Phật cứu vớt mà chỉ có mục đích tôn kính và tự nguyện noi gương Ngài để hoàn thành sứ mạng tự giác giác tha.



Mục Đích Của Đời Người

Cho dù bạn chỉ có một giờ để sống, một phút để sống, mục đích của cuộc đời vẫn là sống vì sự lợi lạc của người khác, với một trái tim tốt lành, với lòng bi mẫn đối với người khác.

Như tôi đã nói trong một Pháp thoại trước đây, bạn nên hiểu rõ ý nghĩa của đời bạn, lý do bạn sống, mục đích của việc đã nhận được thân người quý báu vào lúc này, đặc biệt là sự tái sinh làm người cao quý này với tám sự tự do và mười điều thuận lợi – bạn nên hiểu rõ điều này, không chỉ một cách trí thức mà còn hiểu thật sâu xa khiến bạn chuyển hóa thái độ của bạn một cách thích đáng và sống cuộc đời bạn trong sự hòa hợp với mục đích đó. Mục đích đó là gì? Đó là sống cuộc đời bạn để làm lợi lạc cho những người khác.

Như thế, lòng bi mẫn là thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về hàng tỉ cách thiền định hay thực hành khác nhau mà bạn có thể trải cả cuộc đời mình để thực hành, nhưng đây chính là điều quan trọng nhất - làm lợi lạc người khác, sống cuộc đời bạn với một thái độ bi mẫn đối với người khác. Đây là mục đích thực sự của cuộc đời, là ý nghĩa của cuộc đời.

Cho dù bạn chỉ có một giờ để sống, một phút để sống, mục đích của cuộc đời vẫn là sống vì sự lợi lạc của người khác, với một trái tim tốt lành, với lòng bi mẫn đối với người khác. Cho dù bạn chỉ có một phút để sống, chỉ còn lại một phút của thân người quý báu này, điều quan trọng nhất mà bạn có thể thực hành là lòng bi mẫn; ngoài ra không có gì khác.

Cũng hoàn toàn giống như thế nếu bạn có một trăm năm để sống, một ngàn năm, thậm chí một kiếp để sống. Để hoàn thành mục đích của cuộc đời bạn, bạn vẫn phải sống với lòng bi mẫn đối với những người khác, vì sự lợi lạc của những người khác.

Nếu bạn đang vui hưởng một cuộc đời hạnh phúc, đang kinh nghiệm lạc thú, thì để cuộc đời bạn không trống rỗng, trở nên lợi lạc, hữu ích cho những người khác, bạn nên thực hành lòng bi mẫn, sống cuộc đời bạn để làm lợi ích cho người khác. Nếu đời bạn không hạnh phúc, nếu bạn đang kinh nghiệm những vấn đề trong mối quan hệ, nếu bạn bị ung thư hay bệnh AIDS, nếu bạn tuyệt vọng, nếu đời bạn không thoải mái, cho dù bạn đang gặp đến hàng trăm hay hàng ngàn vấn đề – sức khỏe, mối quan hệ, những vấn đề liên quan tới việc làm – như thể bạn đang chết đuối trong vũng lầy của những vấn đề, bạn cũng nên thực hành lòng bi mẫn đối với những người khác. Nếu bạn có thể thực hành lòng bi mẫn vào những thời điểm như thế thì bạn vẫn làm cho cuộc đời bạn có ý nghĩa, lợi lạc cho người khác, hữu ích cho người khác, và nhờ đó – bằng cách làm lợi lạc cho người khác – bạn sẽ thường xuyên làm cuộc đời bạn mang lại lợi lạc cho bản thân bạn. Yêu thương người khác là cách thức tốt đẹp nhất để yêu thương bản thân bạn.


Yêu thương người khác có nghĩa là bạn đừng làm hại người khác, và không làm hại người khác là không làm hại bản thân bạn. Ngay cả trong phạm vi của sự bảo vệ, đây là cách tốt đẹp nhất để bảo vệ cuộc đời bạn. Cũng giống như thế, khi bạn làm cho người khác hạnh phúc, bạn mang lại hạnh phúc cho chính bạn. Nghiệp được tạo nên nhờ làm cho người khác hạnh phúc cũng làm cho bạn kinh nghiệm sự hạnh phúc; đó là loại nghiệp dẫn tới hạnh phúc. Cho dù bạn không mong muốn hạnh phúc nhưng một khi bạn đã tạo nên nguyên nhân của hạnh phúc thì hạnh phúc chính là kết quả.

Nếu bạn trồng một hạt giống trên mặt đất và hội đủ mọi điều kiện (duyên), chẳng hạn như đất, nước và nhiệt độ toàn hảo – mọi sự đều hội tụ và không có những trở ngại nào – thì cho dù bạn có cầu nguyện nhiều tới đâu để cây đừng mọc lên, nhưng nó vẫn sẽ phát triển. Chắc chắn là nó sẽ mọc lên bởi hạt giống được gieo trồng trên mặt đất đã gặp được mọi điều kiện cần thiết để phát triển; nhân và duyên đã gặp gỡ. Bởi nó là một sự duyên sinh nên việc bông hoa hay trái cây đó sẽ mọc lên là điều không thể tránh khỏi, cho dù bạn có cầu nguyện nhiều tới đâu để nó không mọc.

Tương tự như thế, nếu bạn sống cuộc đời hàng ngày của bạn với lòng bi mẫn, mang lại thật nhiều hạnh phúc cho người khác trong khả năng của bạn, thì kết quả tự nhiên là bản thân bạn sẽ kinh nghiệm hạnh phúc, bây giờ và trong tương lai – đó là kết quả tức thì, là sự an bình trong tâm trong đời này và kết quả lâu dài là hạnh phúc trong tất cả những đời sau của bạn. Tất cả những điều này là kết quả chắc chắn của việc mang lại hạnh phúc và lợi lạc cho người khác.

Như vậy, bạn sẽ thâu hoạch được rất nhiều khi thương yêu người khác, quan tâm tới những chúng sinh khác như bạn làm cho bản thân bạn. Dù họ là những côn trùng hay con người thì họ cũng là những sinh loài giống như bạn – ước mong hạnh phúc và không mong muốn đau khổ. Giống như bạn cần tới sự giúp đỡ của người khác để giải trừ những vấn đề thì họ cũng cần điều đó. Giống như hạnh phúc của bạn tùy thuộc vào những người khác, hạnh phúc của họ cũng thế. Không chỉ có con người, mà cả đến những côn trùng cũng cần tới sự giúp đỡ của bạn. Việc họ giải thoát khỏi những vấn đề thì tùy thuộc vào bạn; hạnh phúc của họ tùy thuộc vào bạn.

Tại sao việc thương yêu người khác, quan tâm tới người khác như bạn làm cho bản thân bạn, không làm hại mà làm lợi lạc cho họ, lại là phương cách tốt đẹp nhất để chăm sóc bản thân bạn, quan tâm tới bản thân bạn? Đó là nhờ có một trái tim tốt lành, sự thương yêu người khác, làm lợi lạc người khác mà mọi ước muốn của riêng bạn đều được hoàn tất.

Nói chung, trong thế giới, khi những người khác nhìn thấy một người thiện tâm, có bản tánh bi mẫn, từ ái, họ nhận được những sự rung động tốt lành, một cảm xúc tích cực từ người đó. Ngay cả những người không quen biết gặp người đó trên đường, trong máy bay, trong các văn phòng hay cửa hàng, thì chỉ cái nhìn của người đó cũng đủ làm cho họ sung sướng, mỉm cười và muốn được trò chuyện. Do bởi trái tim tốt lành, những rung động tốt lành, cảm xúc tích cực của bạn, bạn làm cho người khác hạnh phúc. Ngay cả những biểu lộ trên khuôn mặt họ cũng thay đổi và phản ánh tâm thức hạnh phúc của họ. Cho dù bạn không phải trải nghiệm bất kỳ vấn đề gì thì những người khác cũng vẫn giúp đỡ bạn.

Khi bạn có một trái tim tốt lành đối với những người khác, tất cả những ước muốn hạnh phúc của riêng bạn đều được đáp ứng một cách ngẫu nhiên. Giống như một Bồ Tát, mặc dù động lực của bạn chỉ là hạnh phúc của người khác và bạn không trông chờ gì hạnh phúc của bản thân bạn, cho dù mọi sự bạn làm trong hai mươi bốn giờ đồng hồ một ngày được đặc biệt hồi hướng cho hạnh phúc của những người khác mà không có một niệm tưởng nào về hạnh phúc của riêng bạn, thì bản thân bạn cũng sẽ kinh nghiệm mọi điều hạnh phúc.

Nhờ chứng ngộ Bồ đề tâm, những thánh nhân - những vị Bồ Tát – sẽ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình vì người khác. Các ngài không nghĩ tưởng gì về hạnh phúc của riêng mình mà thay vào đó dùng mỗi giây phút để tìm kiếm hạnh phúc cho những người khác. Như thế điều gì sẽ xảy ra? Với Bồ Đề tâm, các ngài có thể phát triển trí tuệ tối thượng nhận ra bản tánh đích thực của cái tôi – bản ngã và những uẩn, sự kết hợp của thân và tâm là căn bản của cái được quy gán là cái tôi – và mọi hiện tượng khác.

Nhờ phát triển Bồ đề tâm và trí tuệ tối thượng, các ngài có thể tiệt trừ mọi lỗi lầm của tâm thức, nguyên nhân của mọi đau khổ – những ô nhiễm thô sơ, những lầm lạc của tham, sân và si, và những ô nhiễm vi tế, là những gì có tính chất của các dấu vết để lại trong dòng tương tục của tâm thức do những mê lầm.

Như vậy, đây là điểm đặc biệt của Bồ đề tâm, bởi với sự hỗ trợ của nó, bạn có thể phát triển không chỉ trí tuệ chứng ngộ tánh Không mà còn có thể ngăn cản những ô nhiễm vi tế và nhờ đó trở nên hoàn toàn giác ngộ, đạt được trạng thái toàn trí, tâm toàn giác, thấu suốt trực tiếp và không chút lỗi lầm, không chỉ nghiệp thô nặng mà cả mỗi nghiệp vi tế duy nhất của từng người trong vô số chúng sinh. Bạn sẽ nhận ra mọi đặc tính dị biệt, những ước muốn và mức độ thông tuệ của họ; thấu hiểu từng phương pháp độc nhất thích hợp với tâm thức của tất cả những chúng sinh khác biệt này vào những lúc khác nhau; và khám phá phương pháp thích ứng phù hợp với tâm của mỗi cá nhân chúng sinh vào những thời điểm khác nhau để dẫn dắt chúng sinh đó từ hạnh phúc này sang hạnh phúc khác, bằng đủ mọi cách để đạt được giác ngộ.

Như thế, Bồ đề tâm khiến cho trí tuệ của bạn hoạt động khiến nó có thể chiến thắng ngay cả những ô nhiễm vi tế, làm cho tâm bạn hoàn toàn giác ngộ. Theo cách này, Bồ đề tâm khiến bạn trở thành một người dẫn đường hoàn toàn có phẩm tính, một bậc giác ngộ toàn hảo, và nhờ đó giải thoát vô số chúng sinh khỏi luân hồi sinh tử, đại dương của đau khổ, và mang họ tới hạnh phúc vô song của sự Toàn Giác.



Tất cả những phẩm tính không thể nghĩ bàn này của con đường Bồ Tát, tất cả những phẩm tính vô biên của thân linh thánh, ngữ linh thánh và tâm linh thánh của Đức Phật xuất phát từ cội gốc là sự từ bỏ bản ngã và tư tưởng tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình, và sự phát triển trái tim tốt lành, tư tưởng chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chúng sinh. Tất cả mọi phẩm tính đó xuất phát từ cội gốc này. Mọi phẩm tính tốt lành vô biên của Đức Phật, của Pháp, con đường của Bồ Tát, và của Tăng, những bậc thánh và thậm chí những Bồ Tát bình thường, đều xuất phát từ tư tưởng quý báu phi thường, Bồ Đề tâm như ý – sự từ bỏ bản ngã và tâm quy-ngã, và sự phát triển lòng yêu thương chỉ dành cho người khác. Tất cả những phẩm tính đó đều xuất phát từ tư tưởng này.

Những bậc có thể làm được điều này chứng ngộ sự thành tựu tuyệt hảo nhất. Các ngài từ bỏ bản ngã, từ bỏ cái tôi, nhưng các ngài đạt được sự thành tựu tuyệt hảo, thành công vĩ đại nhất. Các ngài không chỉ tìm ra sự giải thoát vĩnh cửu khỏi chu kỳ của sự chết và tái sinh và mọi vấn đề mà nó mang lại, chẳng hạn như sự tái sinh, sự già, bệnh, những vấn đề thuộc cảm xúc và mọi khó khăn khác của cuộc sống mà chúng ta kinh nghiệm, mà các ngài cũng đạt được sự giải thoát vĩnh cửu, tự do vĩnh cửu, hạnh phúc vĩnh cửu cho bản thân mình, và có thể mang lại hạnh phúc bao la như bầu trời cho vô số chúng sinh. Tất cả những điều này xuất phát từ cội gốc là Bồ Đề tâm, tâm linh thánh cao quý nhất, sự từ bỏ cái tôi, thương yêu người khác. 

Chúng ta có thể hiểu được điều này chân thật ra sao bằng cách đọc những bản văn thuật lại những câu chuyện tiền thân của Đức Phật và cuộc đời của những Bồ Tát khác, nhưng ta cũng có thể thấu hiểu một trái tim tốt lành thì như ý ra sao đối với hạnh phúc của bạn, từ các gương mẫu của những cuộc đời bình thường của những con người bình thường trong thế giới – những người mà tâm họ bi mẫn hơn trong bản chất ra sao, những người có thiện tâm, có những đời sống thoải mái hơn.

Theo cách này, kinh nghiệm về những vấn đề của người này trở thành một nguyên nhân của hạnh phúc của tất cả chúng sinh – không chỉ hạnh phúc nhất thời mà là hạnh phúc của sự Giác ngộ viên mãn, tối thượng. Bồ đề tâm làm cho kinh nghiệm về những vấn đề của người ấy trở thành một nguyên nhân cho hạnh phúc của mọi sinh loài. Làm cách nào? Bằng cách chuyển hóa những vấn đề thành con đường dẫn tới Giác ngộ. 

Trích trong nguyên tác: “Teachings from the Vajrasattva Retreat”  

Kính mời tham khảo bài viết theo link:


TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP
TỰ TÁNH TAM BẢO VIÊN NGỌC MINH CHÂU
BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
http://lotus-lantern-canada.blogspot.ca/2012/04/bo-tat-thien-thu-thien-nhan.html
QUA CƠN MÊ (CTLĐ 2)

Saturday, May 12, 2012

***CÂU CHUYỆN NGỤ NGÔN CẦN SUY NGẪM


Có một câu chuyện ngụ ngôn khiến người ta phải suy gẫm

Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa.

Một hôm nọ trâu đi làm về,thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu bảo:
- Không có ai sung sướng bằng mày,chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự!

Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu:

- Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc,  sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được . 

Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ?

Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảm của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi:

- Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả.

 Đang nói con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở:
- Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế.

Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói:
- Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có lỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn dình dập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao, chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. 
  
Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt,nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có ai sung sướng cả.

Đàn cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình:
- Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt.
Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột:
-Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này.

Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng, nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu sự khổ sở nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gổ. Tiếng ông chủ gào lên:

-Sao tôi khổ đến thế này, không bằng con trâu con chó nữa! con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền, làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai? vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở!

Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng:
 - Hóa ra sống ở trên đời đâu có ai không khổ!

Trong chúng ta, mỗi người có một hoàn cảnh, xuất thân, có một hoàn cảnh sống, có thể là vui, có thể là khổ, nhìn chung là như thế, song nếu xét cho kỹ thì không ai hoàn toàn hạnh phúc, chỉ khác nhau là ít, nhiều những nỗi vui, khổ mà thôi. Khổ và vui đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa cuộc đời chúng ta, không một ai thoát cả.

Người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già; người giàu có cái khổ của người giàu, người nghèo có cái khổ của người nghèo, dù trong hoàn cảnh nào cũng có những điều không như ý, cũng có những nỗi khổ thân, khổ tâm, hoặc cả thân tâm đều khổ. 

Có ai không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, hy vọng điều gì ? Có ai chưa bao giờ buồn phiền, thất vọng,, hay bất mãn, chán nản? Có ai hoàn toàn khỏe khoắn, thoải mái cả về thể xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai. Cũng như Đoàn Như Khuê đã nói trong bài thơ Bể thảm:

“Bể thảm mênh mông sóng lụt trời.
Khách trần chèo một lá thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió
Gẫm lại cùng một bể thảm thôi”.

Đức Phật đã từng nói: “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”, và khẳng định bản chất cuộc đời là Khổ, một sự thật hiển nhiên (Khổ đế). Bởi vì trong hoàn cảnh nào thì con người cũng không thoát khỏi sự chi phối của định luật vô thường, mà hễ vô thường thì khổ. Cụ thể là con người khổ vì sinh , già bệnh, chết, khổ vì mong cầu không toại nguyện , tử biệt sinh ly, khổ vì oán ghét mà phải gặp nhau, khổ vì ngũ ấm bất hòa, cả thân, tâm đều khổ.

Khi nhận biết cuộc đời là khổ, và cái khổ tác động đến tất cả mọi người cho dù con người có ở hoàn cảnh , địa vị, hay thân phận nào đi chăng nữa; bấy giờ chúng ta sẽ không còn cảm thấy đau khổ vì cho rằng mình khổ hơn người khác; mình là kẻ bất hạnh, vô phần hơn người khác; cũng như trường hợp con trâu trong câu chuyện ngụ ngôn nói trên. 

Khi nhận biết cuộc đời là khổ, chúng ta sẽ bớt tham đắm và chịu huệ lụy bởi cuộc đời, biết tìm cho mình phương cách sống tích cực để có được cuộc sống an vui hạnh phúc; ví dụ, biết sống thiểu dục tri túc, biết xả ly, biết yêu thương san sẻ v.v. Khi nhận biết cuộc đời là khổ, chúng ta mới có nhu cầu thoát khổ, mới có ý muốn, chí hướng tu tập tìm con đường giải thoát khổ đau. Đây chính là lý do vì sao Đức Phật nói Khổ đế trước khi dạy các pháp môn tu là phần Đạo đế. Khi chiêm nghiệm về sự khổ ở thế gian,

“Đường danh nẻo lợi lắm người trông,
Chen chúc làm chi giữa bụi hồng.
Kìa bong nguyệt câu qua cửa sổ,
Nọ tranh vân cẩu có rồi không.
Lỡ cười, lỡ khóc trên sân khấu,
Khi nở , khi tàn mấy cụm bông.
Muốn kiếp phù sinh ra khỏi lụy.
Quyển kinh câu kệ chớ nài công”.




Muốn cuộc đời an vui không còn khổ nữa, muốn thoát ra khỏi những triền phược, hệ lụy thì phải cố gắng tu, bởi vì: ” Hữu vi là pháp vô thường, sớm còn tối mất vô phương vững bền . Một mai sinh diệt đã không, Niết –bàn an lạc thong dong tháng ngày”

Ngày xưa khi còn là thái tử, Đức phật đã bỏ cung vàng điện ngọc xuất gia đi tu, vua Trần Thái Tông cũng từ bỏ ngôi vua vào núi tu hành. Các ngài nhận thấy làm vua cũng không sung sướng như người ta tưởng, làm vua cũng có những cái khổ của một vị vua và những cái khổ chung mà mọi chúng sinh phải chịu.

Trong bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển ở thành Ba-la-nại, Đức Phật đã nói về bản chất của thế gian là bất toàn, vô thường, bất toại nguyện, đau khổ( gọi chung là dukkha). Đức Phật nói nguyên nhân của khổ (Tập đế) là do hành động tạo tác của thân và tâm ý (Nghiệp) dưới sự thúc đẩy của phiền não vô minh và ái dục. 

Đức Phật cũng nói về hạnh phúc chân thật có được khi khổ đau không còn ( Diệt đế), và Ngài chỉ rõ con đường đưa đến hạnh phúc chân thật đó (Đạo đế) là con đường Bát Chánh Đạo:

**Chánh kiến: thấy biết đúng đắn sự thật của cuộc đời, hiểu rõ pháp Tứ đế.
**Chánh tư duy: suy nghĩ đúng đắn phù hợp chân lý.
**Chánh ngữ: lời nói chân chánh.
** Chánh nghiệp: làm những việc lành có ích cho mình, cho người khác.
**Chánh mạng: sống bằng nghề chơn chánh, lương thiện.
**Chánh tinh tấn: siêng năng, chuyên cần theo chiều hướng tiến bộ, tu dưỡng bản thân và tích cực làm lợi ích cho nhân loại chúng sinh.
**Chánh niệm: luôn ý thức và kiểm soát hành vi của thân, khẩu, ý, luôn nhớ nghĩ các pháp lành, tâm an trú trong thiện pháp.
**Chánh định: nhiếp phục tâm ý, có định lực, có tuệ quán

Nội dung Bát chánh đạo có thể nói không ngoài bài kệ sau:

Không làm các việc ác
Siêng làm các việc lành

Giữ tâm ý thanh tịnh

Đó là lời Phật dạy.
(Pháp cú 183)


 
 
Từ Bi & Bạo Lực
TK THÍCH CHÂN TUỆ 


Trong thành Xá Vệ (xứ Kosala), ai cũng biết Angulimala là một kẻ sát nhân nguy hiểm. Khi nghe tin Angulimala xuất hiện trong thành phố, mọi người đều kinh sợ. Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng đối với Angulimala, phải huy động cả quân đội mới có thể bắt được. Dân chúng xem Angulimala như ác quỉ, không có tình thương. Tất cả dân chúng trong thành người nào cũng đồng ý là gặp Angulimala thì phải giết, phải tiêu diệt. Chỉ trừ có một người. Người đó nghĩ rằng trong Angulimala vẫn còn có hạt giống thiện. Người đó là đức Thế Tôn. Nhưng chưa ai có khả năng khơi dậy hạt giống đó, cho nên Angulimala chưa có cơ hội để quay đầu trở thành con người tốt.

Angulimala đã giết rất nhiều người. Mỗi khi giết một người, anh ta cắt một ngón tay, rồi xỏ xâu đeo vào cổ. Nghe nói anh ta đã có 99 đốt xương rồi. Anh ta muốn giết thêm một người nữa cho đủ số 100, để có xâu chuỗi nạp cho tà giáo. Chữ ‘mala’ trong danh từ Angulimala có nghĩa là xâu chuỗi. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ vô tội).

Một buổi sáng, đức Thế Tôn vào thành, đang bưng bát đi khất thực từng bước thảnh thơi thì nghe có tiếng chân chạy phía sau. Ngài biết rằng Angulimala đang đuổi theo, nhưng vẫn bình thản bước đều.

Đức Thế Tôn không cần phải thi thố phép thần thông. Ngài có niềm tin lớn nơi tình thương và trí tuệ của mình để vượt khỏi những tình trạng khó khăn. Angulimala lớn tiếng gọi:
- Tu sĩ kia, đứng lại!

Thế Tôn vẫn tiếp tục đi, không mau hơn, không chậm hơn. Phong độ của Ngài rất an nhiên tự tại. Thấy vậy, Angulimala lớn tiếng hơn:
- Đứng lại! Tu sĩ kia, đứng lại!

Đức Thế Tôn thản nhiên tiếp tục bước đi, vẻ tự tại vô úy. Angulimala chạy mau hơn chỉ trong khoảnh khắc đã đuổi kịp và la lên:
- Tôi bảo ông dừng lại, tại sao không dừng?

Thế Tôn vẫn bước đi, nói với giọng điềm tĩnh:
- Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại.

Chưa bao giờ nghe một câu nói kỳ lạ như vậy, Angulimala ngạc nhiên hỏi:
- Ông nói sao? Ông đang đi rõ ràng mà tại sao nói ông đã dừng lại?

Đức Thế Tôn từ tốn nói:
- Này Angulimala, trên con đường tạo tác những ác nghiệp thì ta đã dừng lại từ nhiều kiếp rồi. Còn anh, anh vẫn còn đang tiếp tục, anh nên dừng lại!

Lúc đó đức Thế Tôn đứng lại. Angulimala cũng đứng lại. Đức Thế Tôn nhìn thẳng vào Angulimala mà nói:
- Anh biết không, ở đời ai cũng sợ đau khổ, ai cũng muốn sống, ai cũng sợ chết. Mình phải biết thương người!

Angulimala la lên:
- Trên đời này có ai thương tôi đâu, mà bảo tôi thương họ? Loài người là loài độc ác nhất ở trên đời, tôi muốn tiêu diệt hết loài người cho hả dạ tôi.

Đức Thế Tôn nói:
-Này Angulimala, tôi biết anh đã chịu nhiều đau khổ. Cuộc đời đã bạc đãi anh, người ta đã không tử tế với anh, đã làm khổ anh. Anh đâm ra hận thù cuộc đời! Nhưng anh nên biết: hận thù chỉ làm cho mọi người thêm khổ đau, chỉ có tình thương mới đem lại hạnh phúc cho đời mà thôi.

Angulimala la lớn:
- Tình thương hả? Ai là người có tình thương, ông chỉ cho tôi coi?

Đức Thế Tôn vẫn dịu dàng:
- Anh đã từng gặp vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào chưa? Các vị đó không những tôn trọng sinh mạng của con người, họ còn tôn trọng sự sống của loài vật. Họ tôn trọng các loài cỏ cây và đất đá nữa.
Nếu anh gặp được họ, anh sẽ thấy rằng tình thương là cái gì có thật. Khi có tình thương trong lòng, người ta không còn đau khổ nữa.
Hận thù là một khối lửa đốt cháy con người, đốt cháy thế gian. Anh nên quay đầu lại, từ khước bạo lực, trở về với con đường cảm thông và yêu thương.

Những lời nói của Thế Tôn tràn đầy từ bi, phát xuất từ trái tim. Angulimala là một con người thông minh nhưng bị hận thù che lấp. Nghiệp thiện ngày xưa của Angulimala tác động vào tư tưởng, và anh ta biết rằng mình đang đứng trước mặt Đức Phật Thích Ca. Ngài đã vì lòng thương xót mà đến cứu anh ra khỏi vòng tội lỗi.

Anh ta vứt gươm xuống đất, xin Đức Phật cho được xuất gia. Đức Phật chỉ nói một câu đơn giản: - "Ehi! Bikkhu" (Hãy đến! Tỳ kheo).

Thế nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần của Tỳ kheo Angulimala vẫn không được yên ổn. Thường xuyên, ông bị ám ảnh bởi tiếng kêu khóc của những người bị ông sát hại. Có hôm, đi khất thực, ông bị quần chúng đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện, lỗ đầu, chảy máu.

Đức Phật giải thích cho biết, đó là Angulimala trả nợ nghiệp ác cũ của mình. Sau này, Angulimala tu chứng thánh quả A la hán.

Chúng ta thấy câu chuyện Angulimala gặp đức Thế Tôn là một cuộc đấu gươm rất ngoạn mục. Angulimala có thanh gươm của bạo lực và hận thù. Đức Thế Tôn có thanh gươm của từ bi và trí tuệ. []

 

SUY NGẪM

Tu theo đạo Phật cốt tủy là tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Ngược lại, nhiều người tại gia cũng như xuất gia ưa chuộng hình tướng bên ngoài, bày vẽ các nghi lễ, cách trang phục rườm rà, phức tạp, thích nghe và truyền bá các chuyện linh thiêng, huyền bí, mê tín, huyễn hoặc, như hoa mạn đà la, hào quang chiếu sáng trên nóc chùa, trên tượng lộ thiên, thường ngày không lo tu tập.


Tu theo đạo Phật cốt tủy là nổ lực chuyển hóa tâm niệm bất thiện, thành tâm niệm thiện lành, chuyển hóa tam nghiệp thân, miệng, ý hằng thanh tịnh. Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng tây phương. Không cần phải mong cầu. Không cần phải van xin. Đạo Phật rất thực tế. Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng. Con người phải nổ lực tự tu, tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp, trong suốt đời sống hàng ngày, để trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ và đạt được thành tựu tốt đẹp, hoàn mãn. []

BAN BIÊN-TẬP PHTQ.CANADA
cutranlacdao@yahoo.com

 Kính mời xem bài viết theo link:
 

KHÔNG LẦM THÂN MỘNG
CUỘC ĐỜI VÔ GIA CƯ
 NHẪN (CAO HUY THUẦN)
TỘI VÀ NGHIỆP
NGƯỜI TẠI GIA TU PHẬT
THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC-PHẬT PHÁP KHÓ NGHE