Friday, December 9, 2011

***TRIẾT LÝ SÂU SẮC CỦA NHÀ PHẬT Ở CHUYỆN "TÂY DU KÝ"



Tác giả: Thái Hà

Bốn nhân vật của Tây du ký biểu hiện cho bốn "cái thức" của mỗi con người chúng ta. Tam Tạng là tiêu biểu cho "A-lại-da thức", có vẻ vô tư, vô thiện, vô ác, vô phú, vô ký tính. Trư Bát giới là tiêu biểu cho "đệ thất thức", say mê ăn, ngủ, ưa chấp ngã lắm cho nên bao nhiêu cái hư hỏng, phiền não là do anh mà ra hết. Rồi "ý thức" là Tề Thiên Đại Thánh,
 anh bay trên trời cũng được, lặn xuống nước cũng xong. Quá khứ, vị lai hiện tại, Tôn Ngộ Không đều biết cả. "Tiền ngũ thức" là Sa Tăng, gặp đâu hay đó, gặp sắc thì hay sắc, gặp tiếng thì nghe tiếng, hễ tiếng qua đi rồi thì thôi. 

Kể từ khi nhận giới hạnh, trở thành đệ tử của Phật giáo, Ngộ Không bao giờ cũng thể hiện niềm kính tín đối với Phật tổ và các vị Bồ Tát. Tuy nhiên, đức tin của Ngộ Không xuất phát từ sự minh triết, giác ngộ thực sự và luôn luôn tiềm ẩn tinh thần phê phán chứ không giống như sự cuồng tín và cố chấp của Đường Tăng. Bằng chứng rõ nhất là tuy ở cương vị đồ đệ nhưng chính Ngộ Không lại là người rất nhiều lần giảng giải giáo lý Phật cho sư phụ của mình.

Điều này có nguồn gốc từ bản thân lý tưởng bình đẳng, bác ái và tinh thần đề cao giác ngộ bằng sự thể nghiệm cá nhân của Phật giáo nói chung. Mặt khác, nó là sản phẩm của tinh thần thực tiễn vốn được thể hiện rất rõ trong Phật giáo Thiền tông. Nó tạo nên cung cách ứng xử cũng khá ngang tàng giữa Ngộ Không với các thần thánh Phật giáo: phản ứng tức khắc mỗi khi cảm thấy các "bề trên" không minh chính hoặc tỏ ra không xứng đáng.

Như lần đến mời Quan Âm Bồ Tát hàng phục Hắc đại vương, Bồ Tát vừa mở miệng hỏi, Ngộ Không đã nói ngay ý nghi ngờ của mình, chẳng cần úp mở: "Sư phụ tôi dọc đường có gặp một ngôi chùa thờ ngài, ngài được người ta thờ cúng mà lại cho con yêu tinh gấu đen ở bên cạnh để nó ăn trộm áo cà sa của sư phụ tôi, mấy lần đòi, nó không trả, nay tôi đến đòi ngài đấy".

Hay lần này Di Lặc giáng hạ bắt quái Hoàng My, ban đầu Ngộ Không tỏ ra rất lễ độ với Phật tổ nhưng vừa nghe nói: "Hắn chính là tên tiểu đồng lông mày vàng giữ chiếc khánh cho ta" là lập tức đổi giọng, lớn tiếng quát: "Hòa thượng đáng cười này giỏi thật! Ngài bỏ sống tiểu đồng, để hắn ngông cuồng xưng là Phật tổ, hãm hại lão Tôn, không thể miễn lỗi gia pháp không nghiêm!".

Mỹ Hầu Vương đặc biệt có đôi mắt vàng sáng chói, chiếu suốt qua các cung trời làm Ngọc Hoàng rung động, kinh ngạc. Đôi mắt vàng ấy phân biệt rõ chính tà, hư thật. Đôi mắt vàng ấy đã giàn giụa nước mắt trước cảnh đời vô thường, khổ đau đi tìm đường học đạo bất sinh, bất diệt từ Tôn giả Tu Bồ Đề tại một xứ xa xăm. Đôi mắt vàng ấy đã là linh hồn của cuộc hành trình thỉnh Kinh mà thiếu nó thì tức thời phái đoàn rơi vào ma nạn. Đôi mắt vàng ấy là gì, nếu không phải là biểu tượng của trí tuệ Bát Nhã, của giáo lý trí tuệ Phật giáo?

Hầu như suốt thời gian theo dõi cuộc hành trình thỉnh Kinh, chúng ta đã bị cuốn hút bởi cái nhìn chính xác và bởi thái độ tự chủ trước các hiểm nạn, trước mọi cám dỗ của Tôn Hành Giả. Mỗi cái nhìn, mỗi bước đi của Hành Giả như vang vọng lời Kinh Bát Nhã:

"... Dĩ vô sở đắc, cố Bồ-đề-tát-đoả y Bát Nhã Ba La Mật-đa, cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn". 

 Hồi thứ hai là hồi học đạo và hành đạo của Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không đã học, bàn luận, hành Tam thừa giáoNhất thừa giáo suốt bảy năm liền, như tác giả Ngô Thừa Ân giới thiệu: "... Diễn đủ Tam thừa giáo. Lúc diễn thiền môn, khi giảng đạo. Ba nhà hợp lại nghĩa thêm càng".

Trong thời gian này, Tôn Ngộ Không làm công tác của một người xuất gia, chấp tác và thực hành văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ để nuôi dưỡng trí tuệ giác ngộ Không tính (Vô ngã tính) của các pháp. Động cơ và nguyện vọng xuất gia của Ngộ Không là để giải thoát hết thảy phiền não, khổ đau của sinh tử rất tương ứng với giáo lý của Phật. Sau bảy năm hành đạo, khi hiểu rõ đường đi và chỗ đến, Tôn giả Tu Bồ Đề dạy tiếp công phu thiền chỉ và thiền quán để chế ngự thân và ý, để điều hòa thân và điều hòa tâm. Tôn Ngộ Không thực hành công phu này trong ba năm thì sáng tỏ tâm và tuệ.
Đề tài của Tây du ký là chuyến đi lấy kinh. Bản thân câu chuyện này được phát triển với tiền đề định sẵn là khẳng định Phật giáo nên chính nó đã mang màu sắc tôn giáo rồi.

Trải qua một quá trình lưu truyền lâu dài, được bao người bổ sung, sửa chữa, trau chuốt, ngoài việc phản ánh tư tưởng, tình cảm của quần chúng nhân dân, nó còn mang theo những tạp chất khác. Trong xã hội phong kiến, thế lực Phật giáo tỏa ra khắp nơi vì trình độ nhận thức của thời đại hạn chế, người ta rất dễ bị ảnh hưởng. Ngô Thừa Ân không tránh khỏi những quan niệm tôn giáo nào đó. Bởi thế, trong Tây du ký cũng tồn tại tư tưởng định mệnh, tư tưởng nhân quả báo ứng và Phật pháp vô biên.

Thí dụ, chín chín tám mươi mốt nạn, không thể thiếu nạn nào. Vả lại, thường là lúc tai qua nạn khỏi, có một vị thần Phật đến thuyết giáo một hồi, nào là "cái ăn, cái uống đều do tiền định", nào là "ma chướng chưa hết, cho nên bách linh hạ giới, phải chịu tai nạn". Như vậy là điều hòa cuộc đấu tranh của Tôn Ngộ Không với thuyết định mệnh. Những chỗ triết lý về nhân quả báo ứng cũng không ít, rõ ràng nhất là chuyện Lưu Toàn dâng dưa và chuyện hạn hán ở quận Phượng Tiên.
Trong câu chuyện thứ hai, Tôn Ngộ Không như một ông thầy giảng về "khuyến thiện". Còn như tư tưởng Phật pháp vô biên thì biểu hiện ở việc Tôn Ngộ Không bị Như Lai khống chế, tuy y có tài nhào một cái là xa mười vạn tám ngàn dặm, nhưng lại không vượt khỏi lòng bàn tay Như Lai. Những điểm này có mâu thuẫn ít nhiều với tư tưởng chủ đề của toàn sách, đồng thời cũng phản ánh mâu thuẫn trong thế giới quan của tác giả. Nhưng so sánh với thành tựu rực rỡ của bộ truyện thì những khuyết điểm đó chỉ là thứ yếu.

Cốt truyện Tây du ký liên quan đến đạo Phật nhưng tác phẩm không nhằm mục đích truyền đạo. Đạo Phật ở đây được hiểu như một lý tưởng chính trị, một ước mơ về tự do, bình đẳng. Đó là dấu ấn của tư tưởng người dân hình thành trong quá trình truyền miệng câu chuyện Tây du của vị sư trẻ đời Đường. Chính vì thế, khác với lịch sử, nhân vật chính quyết định thành bại của chuyến đi không phải là nhà sư mà là Tôn Ngộ Không.

Nếu không có Tôn Ngộ Không dùng gậy thần mở một con đường thì một bước họ cũng không đi nổi. Nhân vật phi thường này trở thành biểu tượng của người anh hùng phản kháng, của tư tưởng chống đối các thế lực bạo tàn, của lòng dũng cảm và trí thông minh có thể chiến thắng mọi thứ thiên tai nhân hoạ. Đó là bóng dáng của các cuộc khởi nghĩa nông dân vang dội. Ý chí sắt đá, tinh thần lạc quan, tư tưởng đánh và quyết đánh của Tôn Ngộ Không cũng như quá trình Tây du thắng lợi của đoàn người thỉnh kinh đã phản ánh quyết tâm vươn tới một cuộc sống tốt đẹp của người dân lao động.

Tây du ký ra đời không phải là chú ý đến sự nghiệp Tây du thỉnh kinh của Đường Tăng, mà là chú ý đến nhân cách được xây dựng từ giáo lý này. Một nhân cách sống vì hạnh phúc an lạc của số đông, sống hiền thiện, vì công bằng, bình đẳng, tôn trọng sự thật, trách nhiệm cá nhân và đặc biệt là sống tùy duyên, rất trí tuệ.

Theo: Tin tức Online
http://www.phattuvietnam.net/nghiencuu/17348.htm

                                                    NGÀI HUYỀN TRANG ĐẠI SƯ

LỜI BÀN: 

Một hành giả (người tu) trên bước đường tìm về đất PHẬT, vì còn là phàm phu nên có tâm tham, tâm sân, tâm si. Người tu thường kẹt vào chấp ngã, chấp pháp rất nặng nề, cho nên tu cần phải có CHÁNH PHÁP, TỪ BI HỶ XẢ VÀ TRÍ TUỆ SÁNG SUỐT.

**Ba vị đệ tử của Ngài Huyền Trang trong "Tây Du Ký" tượng trưng cho con người ai cũng bị chi phối bởi Tam độc tham sân si. Muốn đi đến đất Phật và liễu ngộ được Chánh Pháp, con người phải tu GIỚI ĐỊNH TUỆ (giữ giới, tu thiền định, đạt được trí tuệ). Người tu cần có sức tinh tấn của giới Pháp và sự sáng suốt chân chánh thấy rõ thiện ác, đúng sai để vượt qua tất cả khổ ách tai nạn và sự cám dỗ của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), tiền của, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, đôi lúc không tự chủ được, tâm ý buông lung ngày tháng rong chơi, ai nói gì cũng tin, ai bảo làm gì cũng nghe theo. 

**Con thuyền không đáy là con thuyền Bát Nhã (trí tuệ) đưa người tu từ sông mê qua bến bờ giác ngộ là đến đất PHẬT. Sự sáng suốt của trí tuệ giúp hành giả không còn chấp thân, chấp ngã là thành quả công phu tu tập và không ham quí y bát bằng vàng (xem nhẹ danh và lợi) của Vua ban, dứt trừ tâm tham, tâm sân, tâm si. Người tu biết buông bỏ tất cả sẽ được tất cả, được trí tuệ trong sáng và thân tâm thanh tịnh hoàn toàn, thì thỉnh được Kinh Phật, liễu ngộ Chánh Pháp để tiếp tục con đường giáo hóa chúng sinh. Đó cũng có nghĩa là THÀNH PHẬT rồi vậy.

Một ý nghĩa cũng rất quan trọng xin được trích trong bài: "Còn như tư tưởng Phật pháp vô biên thì biểu hiện ở việc Tôn Ngộ Không bị Như Lai khống chế, tuy y có tài nhào một cái là xa mười vạn tám ngàn dặm, nhưng lại không vượt khỏi lòng bàn tay Như Lai"

**Ý nghĩa nầy trong kinh thường giải là "Phật Pháp tràn đầy trong hư không". Mặc dù người tu có đạt được tam minh lục thông, hay tài giỏi đến đâu cũng không thoát ra ngoài "Luật nhân quả và Luật vô thường" mà trong Kinh Đức Phật thường nhắc đến để răn dạy chúng sinh trong mọi loài.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
*Lotus Lantern