Monday, August 1, 2011

*** GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 3)



TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, từ phương đông sang đến phương tây, từ Á châu sang đến Âu châu, Mỹ châu, Phi châu và Úc châu, khi bàn về vấn đề giá trị của con người, người ta có vô số cách nhận định, có vô số căn cứ, có vô số cơ sở, có vô số thước đo, có vô số tiêu chuẩn, có vô số khía cạnh và có vô số căn bản, để bàn bạc, để thảo luận, để tranh cãi, để thẩm định giá trị của con người. Không ai đồng ý với ai. Không thời điểm nào giống thời điểm nào. Không địa phương nào hợp với địa phương nào. Không sắc tộc nào đồng quan điểm với sắc tộc nào. Không tôn giáo nào đồng ý với tôn giáo nào. 
 
Trong phạm vi xã hội, phải chăng con người có nhiều tài sản, tiền bạc, của cải thì có giá trị hơn?  Phải chăng con người có nhiều quyền thế, lắm chức tước, địa vị cao thì có giá trị hơn?  Phải chăng con người có kiến thức rộng, hiểu biết sâu thì có giá trị hơn?  Phải chăng con người có nghề nghiệp chuyên môn, bằng cấp cao thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nhiều danh vọng, nhiều tiếng tăm thì có giá trị hơn?  Phải chăng con người có sắc đẹp mỹ miều, duyên dáng thì có giá trị hơn?  Phải chăng con người có nhiều tài năng, khéo léo thì có giá trị hơn? 
 
Trong phạm vi tín ngưỡng hay tôn giáo, phải chăng người tu sĩ có giá trị hơn quảng đại quần chúng tín đồ?  Phải chăng vị tu sĩ nào tu nhiều năm, hay có phẩm trật cao thì có giá trị hơn?  Phải chăng tín đồ nào đi cúng kiến, lễ bái, xem lễ, cầu nguyện nhiều thì có giá trị hơn? Phải chăng người nào biết làm việc phước thiện, biết làm công quả, biết làm đồng công, biết giúp đỡ nhiều người, biết bố thí kẻ nghèo, biết cúng dường các bậc tôn túc, biết phân biệt phải trái, trắng đen thì có giá trị hơn? 
 
Trong muôn ngàn câu hỏi đó, trong muôn ngàn ý kiến của muôn triệu người, tự cổ chí kim, từ đông sang tây, từ Á sang Âu, vấn đề cần suy tư hiện nay của chúng ta là gì?  Đó chính là hai câu hỏi: 
 Đâu là giá trị chân thật của con người?
Tìm hiểu giá trị chân thật của con người được ích lợi gì? 

Trong khi bàn về vấn đề giá trị của con người, thông thường người ta có thể xem xét về hai phương diện: vật chất và tinh thần. Về phương diện vật chất, người đời thường đánh giá cao những con người ăn mặc lịch sự, sang trọng, đúng thời trang, những con người sống trong những ngôi nhà cao, cửa rộng, những tòa biệt thự đồ sộ, nguy nga, tráng lệ, những con người đi trên những chiếc xe hơi lộng lẫy, đắt tiền, đầy đủ tiện nghi, những con người rộng rãi, hào phóng, xài tiền như nước. Bên cạnh đó, người đời cũng thường đánh giá cao những con người có sắc đẹp quyến rủ, những con người dung mạo tuyệt trần, những con người có thân hình lực lưỡng, cân đối, những con người khỏe mạnh, tráng kiện, những con người có uy quyền, có thế lực, có danh vọng, những con người có địa vị trong xã hội, những con người có tài sản kếch sù, những con người có nhiều cơ sở làm ăn, buôn bán, kinh doanh khắp nơi, những con người hét ra lửa mửa ra khói, những con người tiền hô hậu ủng, những con người có kẻ ăn người ở, có kẻ hầu người hạ, phục dịch trong ngoài, những con người có sức mạnh vô địch, những con người có võ công tuyệt luân
 
Những con người như vậy sở dĩ được đánh giá cao, bởi vì đó là mục tiêu nhắm đến, là niềm mơ ước đạt được của hầu hết mọi người nam nữ, già trẻ, lớn bé, trên thế gian này. Bằng đủ mọi cách, mọi thứ, mọi phương pháp, mọi phương tiện, mọi mưu mô, mọi kế sách, mọi thủ đoạn, mọi chiến thuật, mọi chiến lược, mọi sách lược, con người trên thế gian này đều chỉ mong đạt được, đoạt được những điều mơ ước đó, dù có phải chà đạp lên sanh mạng hay nhân phẩm của người khác hay nhiều người khác. Lắm khi con người bất chấp sanh mạng và tiền đồ của cả một dân tộc, hay của cả nhân loại trên quả địa cầu này, chỉ vì những tiêu chuẩn giá trị trên đây. Thật thảm thương thay! 
 
Về phương diện tinh thần, người đời thường đánh giá cao những con người có nhiều bằng cấp chuyên môn, những con người có kiến thức rộng rãi, thông thuộc lịch sử đông tây kim cổ, những con người có sự hiểu biết bao quát mọi vấn đề trong cuộc sống, những con người có nhiều năng khiếu đặc biệt, những con người đạt được nhiều thành tích trong mọi lãnh vực, những con người có hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, đàng hoàng, bề ngoài đứng đắn, từ tốn, chậm rãi, những con người thực hiện được những chuyện cao cả, những chuyện dị thường, những chuyện huyền bí, những chuyện kinh dị, những chuyện kinh thiên động địa, những chuyện không ai làm nổi, những chuyện không ai tưởng tượng nổi. 
 
Tất cả những con người kể trên được đánh giá là những con người có giá trị trong xã hội. Nói cách khác, giá trị của con người trong thế gian hiện nay được xem xét không ngoài hai phương diện: vật chất và tinh thần. Nếu không giàu sang thì cũng phải tài giỏi.  Nếu không quyền thế thì cũng dòng dõi quý phái, danh gia, vọng tộc.  Nếu không có chức thì cũng phải có bằng. Nếu không tốt tướng, khỏe mạnh, đẹp đẽ, mặn mà thì cũng phải nết na, duyên dáng, thùy mị, đạo đức. Chính vì những tiêu chuẩn qui định giá trị của con người như trên, cho nên cuộc đời trên thế gian này đầy dẫy những bất công, gian trá, phiền não và khổ đau. 
 
Nếu tiêu chuẩn qui định giá trị của con người là tiền tài, của cải, giàu sang thì tức nhiên những con người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh khi, chà đạp. Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng, nhân quyền không còn được bình đẳng. Những con người không có nhiều tiền tài, của cải, giàu sang thường mang mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi "thấy" người khác khinh dể mình, khi "nghe" người khác khinh dể mình, khi "nghi" người khác khinh dể mình. Đôi khi chưa thấy ai khinh dể mình, chỉ nghe thoang thoáng, nghe đồn đại, nghe phong thanh người khác khinh dể mình, hoặc nghi người khác khinh dể mình, thì mình đã nỗi trận lôi đình, nỗi giận đùng đùng, ầm ầm, tam bành lục tặc nỗi lên cuồn cuộn. Bởi vậy mới biết trong lòng mỗi người chúng ta, ai ai cũng đều có một ngọn hỏa diệm sơn cả. 
 
Tâm trạng của những người không có nhiều tiền tài, của cải, giàu sang thường bất an, xáo trộn. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ hay một ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có thể làm bùng nổ những cuộc tranh luận, những cuộc tranh chấp, những cuộc tranh biện, những cuộc tranh đấu, những cuộc cãi vã giữa hai người, giữa hai nhóm người, giữa hai đoàn thể. Và như vậy thường dẫn đến chuyện ấu đả nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết, cho tán gia bại sản, cho sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho đóng cửa báo luôn, cho tơi bời hoa lá nhà người, cho chúng khỏi ngóc đầu lên nổi. Hoặc con người tìm cách kiện tụng nhau, lôi nhau ra trước ba tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ phân xử những bạn bè cũ người đồng hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý nghĩ đó là "cố ý" miệt thị người khác nghèo hơn mình, ít tiền tài hơn mình, miệt thị nhóm người khác ít của cải, ít vốn liếng, ít tiền bạc hơn mình, miệt thị đoàn thể khác ít uy tín hơn đoàn thể mình.
 
Trái lại, những con người nhiều tiền lắm bạc thường kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, coi trời bằng nắp vung, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi người. Những con người thừa tiền lắm của thường có thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời bằng cặp kiếng đen; dù rằng tiền bạc và của cải, họ đang sở hữu, không có xuất xứ trong sạch, không có xuất xứ rõ ràng, minh bạch và thực là không đáng hãnh diện, không đáng khoe khoang, không đáng tự hào chút nào cả!  Chính vì tiêu chuẩn qui định giá trị của con người là tiền tài, của cải, giàu sang, gây nên hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh, đạo đức suy đồi, tranh chấp triền miên. 

Cuộc đời đầy dẫy những phiền não và khổ đau, cho cả hai hạng người "có hay không có" tiền tài, của cải, giàu sang. Nếu tiêu chuẩn qui định giá trị của con người là quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thì tức nhiên những con người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh khi, chà đạp.  Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng, nhân quyền không còn được bình đẳng. Những con người không có quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng,  thường mang mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi "thấy" người khác khinh dể mình, khi "nghe" người khác khinh dể mình, khi "nghi" người khác khinh dể mình. 
 

Trái lại, những con người quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thường kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi người.  Những con người quyền cao chức trọng, những con người ăn trên ngồi trước, những con người bằng này cấp kia, những con người có chức có tước, thường có thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời bằng cặp kiếng đen; dù rằng quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng của họ chỉ là dõm, là hư, là giả tạm, là hão huyền, và thực là không đáng hãnh diện, không đáng khoe khoang, không đáng tự hào chút nào cả! 
 
Chính vì tiêu chuẩn qui định giá trị của con người là quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, gây nên hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh, đạo đức suy đồi, tranh chấp triền miên.  Cuộc đời đầy dẫy những phiền não và khổ đau, cho cả hai hạng người "có hay không có" quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng. 
 
Nếu tiêu chuẩn qui định giá trị của con người là bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thì tức nhiên những con người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh khi, chà đạp.  Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng, nhân quyền không còn được bình đẳng. Những con người không có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường mang mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi "thấy" người khác khinh dể mình, khi "nghe" người khác khinh dể mình, khi "nghi" người khác khinh dể mình. 
 
Tâm trạng của những người không có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường bất an, xáo trộn. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ hay một ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có thể làm bùng nổ những cuộc tranh luận, cãi vã giữa hai người, hai nhóm người, hai tông phái. Và như vậy thường dẫn đến chuyện ấu đả nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết, cho tán gia bại sản, cho sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho đóng cửa báo luôn, cho tơi bời hoa lá nhà người, cho chúng khỏi ngóc đầu lên nổi. 

Hoặc con người tìm cách kiện tụng nhau, lôi nhau ra trước ba tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ phân xử những bạn bè cũ người đồng hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý nghĩ đó là "cố ý" miệt thị người khác xấu xí hơn mình, không sang trọng bằng mình, không oai phong bằng mình, không nỗi tiếng bằng mình, miệt thị nhóm người khác không quí phái bằng nhóm mình, miệt thị tông phái khác không được chính tông, chính phái, chân truyền như mình, không trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, đĩnh đạc như mình. 
 
Trái lại, những con người có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi người. Những con người bộ vó trang nghiêm, những con người ra vẻ quí phái, những con người có tướng oai phong, những con người có tiếng có tăm, thường có thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời bằng cặp kiếng đen, dù rằng bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi của họ chỉ là cái võ không ruột và thực là không đáng hãnh diện, không đáng khoe khoang, không đáng tự hào chút nào cả! 
 
Chính vì tiêu chuẩn qui định giá trị của con người là bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, gây nên hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh, đạo đức suy đồi, tranh chấp triền miên. Cuộc đời đầy dẫy những phiền não và khổ đau, cho cả hai hạng người "có hay không có" bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi.
 
Như vậy, chúng ta phải công nhận rằng các yếu tố, các căn cứ, các tiêu chuẩn qui định giá trị của con người trên đây thường dẫn đến những vụ xáo trộn, những vụ tranh cãi, những vụ tranh chấp, những vụ tranh đấu, những vụ tranh biện, những vụ tranh luận, những vụ tranh đua, những vụ kiện tụng, những vụ con kiến đi kiện củ khoai, những vụ vạch áo cho người  xem lưng, những vụ vạch lá tìm sâu, những vụ đào xới tam đại tổ tiên người khác để sỉ vả, nhục mạ, mắng nhiếc, chửi bới, bêu riếu, những trận bút chiến, những sự chia rẽ, những hiện tượng phân hóa, những bất công trong xã hội.  Đồng thời, các tiêu chuẩn qui định giá trị của con người trên đây cũng dẫn đến những phiền não và khổ đau trong tâm tư của tuyệt đại đa số con người trên thế gian này trong mọi hoàn cảnh. 
 
Thí dụ như chỉ cần nghe người nào đó chê mình nghèo, chê mình bất tài, chê mình ngu, chê mình dốt, dù là chê trước mặt hay chê sau lưng, thì chúng ta cũng khó mà nhịn được.  Đôi khi, chưa nghe trực tiếp người nào nói, chỉ cần nghe đồn, nghe nói, hay tưởng tượng người nào đó nói xấu mình điều gì đó, mình chẳng bao giờ bận tâm dành một phút để suy xét xem mình có thực xấu như người ta nói đó hay không, nhiều khi chưa kịp suy nghĩ phải trái gì hết, thì ngọn hỏa diệm sơn trong lòng chúng ta đã bùng lên dữ dội, khó mà ngăn nổi. Cho dù có nhịn được bề ngoài, làm tỉnh ngoài mặt, chúng ta cũng khó lòng dẹp được những niệm sân, khởi lên trong tâm trí.  Cho dù có dẹp được những niệm sân đó trong tâm trí hôm nay, nhưng sau này, mỗi khi chúng ta nhớ lại cảm giác bị khinh chê đó, tâm trí cũng khởi những niệm sân, như thể câu chuyện mới vừa xảy ra vậy. 
 

Thí dụ như chỉ cần đọc báo, xem phim thấy tác giả hay đạo diễn nào đó viết lách, kể chuyện, dựng phim, ngụ ý châm biếm, khôi hài, chế giểu, đùa cợt, chê bai, khích bác, công kích những thói hư tật xấu của một nhân vật nào đó trong truyện hay trong phim, giống y chang như mình, hay na ná giống như mình, thì chúng ta khó mà nhịn được, khó mà dằn được cơn tức giận trào lên như sóng cồn ngoài biển cả, khó mà nín được, không thể không phản ứng, không thể không viết bài đáp lại, nhẹ thì đính chánh, thanh minh thanh nga, nặng thì mạt sát, hèn nhát thì sáng tác thư rơi, ném đá dấu tay, tuyên truyền rỉ tai, bươi móc đời tư, tam đại nhà người ta cho hả hê cái lòng dạ hỏa diệm sơn lâu đời của mình, cho đả cơn tức giận vô cùng vô tận trong lòng mình, còn chưa chịu thôi, nữa là phải nhịn hay sao? 
 
Nếu không làm vậy, chúng cho là mình ngu, không biết gì cả.  Chúng nó ngu chứ mình đâu có ngu dại gì!  Nhất định phải làm tới, phải làm cho ra nhẽ mới thôi.  Dại gì mà nhịn chứ!  Tại sao lại phải nhịn?  Nhịn thì nhục!  Cự thì đục!  Có khi người ta thực sự không có ý ám chỉ mình, nhưng mình cứ la toáng hoáng lên và nhận bừa rằng họ ám chỉ mình, để rồi tự mình chuốc lấy phiền não và khổ đau, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng được! 

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy rằng:
Không nên tìm lỗi của kẻ khác,
không nên xét những việc kẻ khác có làm hay không làm.
Hãy tìm lỗi của chính mình,
hãy xét những điều đã làm hay không làm
trong hành động của chính mình. 
 
Thực ra, dù người ta nói mình ngu, mình không ngu thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình ngu, mình tức giận lên, thì đúng là mình ngu quá rồi, còn gì nói nữa!  Người ta nói mình làm bậy, mình không có làm bậy thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình dính lọ trên mặt, mình không có dính lọ trên mặt thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình bị mất uy tín, mình đâu có uy tín để mất thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình nghèo đến mức không có khố để che thân, mình không có nghèo đến mức đó thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình ngu đến mức không có chữ nghĩa để đem bán độ nhựt, mình không có ngu, không có dốt đến mức đó thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. 
 
Trong Pháp Tứ Y, Đức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ ". 
Nghĩa là muốn có được cuộc sống an lạc và hạnh phúc, chúng ta đừng cố chấp, đừng quan tâm đến những "lời nói vô nghĩa" như trên. Chúng ta chỉ có hai bàn tay, làm sao có thể bụm miệng thế gian cho xuể? Thôi thì kệ họ đi. Được như vậy thì khỏe quá chừng chừng!  Khỏe re! Còn cố chấp thì nặng như bò kéo xe!  Trong thời Đức Phật còn tại thế, khi Ngài đi khất thực, có người đi theo sau quấy rầy, dùng đủ mọi lời thô tháo, mắng nhiếc, nhục mạ. Ngài vẫn thản nhiên bước đi trong chánh định, như không có chuyện gì xảy ra cả.  Người đó thấy Đức Phật tiếp tục lặng thinh, nên tức giận quá, chặn đường và hỏi:  Này ông Cồ Đàm, có nghe ta nói gì không, có chịu thua chưa? Đức Phật từ tốn nói bài kệ như sau: 
 Người hơn thì thêm oán.
Kẻ thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua đều xả hết.
 Giấc ngủ được an lành. 

Như vậy, nếu chúng ta không quan tâm đến chuyện hơn thua, không chấp những lời nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ, bài viết xuất phát từ lòng hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, ai muốn nói gì cũng chẳng sao, ai muốn nghĩ gì cũng được, thì chắc chắn chúng ta sẽ không phiền não và khổ đau, ngày ăn cơm ngon lành, tối đến ngủ thẳng giấc. Chẳng hạn như khi chúng ta đi ăn tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà biếu tặng, nhưng chúng ta không nhận, thì chủ nhà đương nhiên phải giữ món quà đó lại.
 
Cũng vậy, người đời thường "tặng" chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót lưỡi, chúng ta "không nhận", thì chẳng ảnh hưởng gì, sẽ được an giấc ngủ. Nếu nhận lời khen, dù biết là không đúng, thì cũng khoái chí quá ngủ chẳng được. Nhận tiếng chê, tiếng chì, tiếng bấc, dù biết là đúng, thì cũng bực dọc quá, bực bội quá, bực mình quá, bực tức quá, tức nhiên ngủ cũng chẳng được. Như vậy, nếu chẳng những nhận vào tâm thức những lời khen, tiếng chê, còn quyết tâm sống để dạ chết mang theo, thì chúng ta ngu hay không ngu?  Kệ họ nói gì, nghĩ gì thì có phải là khỏe biết mấy! Người ta nói lời khen, tiếng chê xong rồi, họ về nhà quên mất, ngủ thẳng cẳng. Còn chúng ta cứ nhớ mãi, nhớ mãi, còn đem san sẻ chia sớt cái tâm thần bất an vì những lời khen, tiếng chê đó cho những người thân trong gia đình, vợ chồng con cái, để mỗi người mất ngủ vài đêm giống như mình vậy, thử hỏi chúng ta ngu hay khôn? 
 
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy: Tắng ái bất quan tâm. Trường thân lưỡng cước ngọa. 
 
Nghĩa là nếu những chuyện thương thương ghét ghét chẳng bận lòng, chẳng đem vào tâm thức, thì chúng ta sẽ nằm thẳng hai chân ra mà an giấc ngủ, giấc ngủ được an lành, khỏi phải trằn trọc suốt canh trường, nằm đếm số từ một đến vài trăm ngàn! Thiệt là khỏe re! Khỏe ru bà rù!  Trong tam tạng kinh điển, Đức Phật có dạy về "pháp nhẫn ba la mật". Nếu thực sự chúng ta biết được, hiểu được và thực hành được như vậy, thì chắc chắn chúng ta sẽ thoát khỏi phiền não và khổ đau, chúng ta sẽ sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc ngay trên thế gian đầy tranh chấp này. 
 
Thế nào là "pháp nhẫn ba la mật"? 
Đó là phương pháp nhẫn nhịn, kham nhẫn, chịu đựng mọi chuyện trên đời, mọi cơn sóng gió của thế gian. Đó là phương pháp "nhẫn nhịn mà không thấy nhục nhã"  như người đời thường nghĩ. Bởi vì, nếu nhẫn nhịn mà còn thấy là nhục nhã, thì chúng ta chỉ có thể nén giận để nhịn, chắc là không lâu, không quá ba lần. Chúng ta nên nhận định một cách sáng suốt rằng những lời thị phi "không có nghĩa" gì cả, cho nên chúng ta "không cần chấp" làm gì. Chúng ta không chấp vào những lời nói, phê bình, chỉ trích, mạ lị, miệt thị, vu khống, vu cáo, thay trắng đổi đen, lộng giả thành chơn, thì chắc chắn chúng ta sẽ an ổn, bình yên, không ai xâm phạm được. 
 
Thí dụ như khi người ta đưa lửa tới đốt, chúng ta đưa bổi ra đón, lửa có điều kiện cháy lớn hơn.  Nếu chúng ta không đón ngọn lửa do người ta đem tới, thì ngọn lửa đó chỉ đốt hư không mà thôi, hư không không có gì để đốt cháy được, lúc nào đó lửa cũng sẽ tắt queo, không gây thiệt hại gì!  Cũng vậy, khi bị người khác công kích, chỉ trích, mạ lị, miệt thị, chúng ta không chấp vào đó, coi chuyện đó là những chuyện "đương nhiên phải có" ở thế gian đầy tranh chấp, ganh tị, đố kỵ, chúng ta sẽ an ổn, bình yên, không ai xâm phạm được.
 
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi tắt là Kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy: đó là "thập như thị", tức là mười thứ như thị, gồm có: như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh.
 Nghĩa là: do tâm tánh của con người như vậy cho nên hình tướng của con người là như vậy; do bản thể của con người như vậy cho nên nghiệp lực của con người là như vậy; do tạo tác của con người như vậy gây ra nghiệp nhơn như vậy cộng thêm nghiệp duyên như vậy cho nên nghiệp quả của con người là như vậy; vì nghiệp báo của con người như vậy cho nên từ xưa đến giờ cứu cánh của con người cũng là như vậy.  Hiểu được mười điều đương nhiên như thị, như thế, như vậy, tức là chúng ta đã thấy tột chơn tướng của mọi pháp trên thế gian này. Được như vậy, được như thế, được như thị, chúng ta sẽ sống đời an lạc và hạnh phúc, bởi vì chúng ta đã giác ngộ và giải thoát. Nhưng làm thế nào thực hành được pháp nhẫn ba la mật?
 
Câu trả lời đó là: "Người muốn thực hành được pháp nhẫn ba la mật, phải đạt được trạng thái vô ngã". 
 
Trước hết, người đạt được "trạng thái vô ngã" là người không còn chấp "cái ta" tầm thường, như mọi người trên thế gian này thường chấp. Người đời thường chấp, thường cho rằng, tấm thân tứ đại mấy chục ký lô chính là "mình", chính là "ta". Khi được hỏi mình là ai, người đời thường chỉ ngay ngực, hay chỉ vào tấm thân tứ đại nặng nề và trả lời: Ta đây nè!  Cho nên, hể ai đụng đến "ta", thì phải phản ứng ngay, phải đối phó ngay, nhịn không nổi, nín không được. Trái lại, người đạt được "trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng: tấm thân, do đất nước gió lửa hợp thành này, không phải là "ta" thực sự. Đó chỉ là cái trạm dừng tạm thời của kiếp này, trong vô số kiếp, của "ta" mà thôi.  Đến khi mãn kiếp này đời này, "ta" sẽ bỏ lại cái tấm thân đó mà ra đi, tìm cái thân xác khác, trong sáu nẻo luân hồi. Nếu không khéo, do lòng tham lam lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn nhằm cái thân con heo, hoặc do lòng sân hận lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn nhằm cái thân con rắn mãng xà, hay do lòng si mê lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn nhằm cái thân con bò, thì khốn khổ biết là bao nhiêu.

Sở dĩ gọi đó là "tấm thân tứ đại", do "đất nước gió lửa" hợp thành, bởi vì nếu không có những chất từ đất ra như thức ăn, những chất từ nước như thức uống, những chất từ gió như dưỡng khí, những chất từ lửa như hơi ấm, bồi bổ liên tục mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi ngày, thì chúng ta đã vong mạng từ lâu rồi vậy.  Đó chỉ là "tấm thân tứ đại", không phải thực là "ta" vậy.  

Thứ đến, người đạt được "trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng: tâm trạng của mình luôn luôn thay đổi trong từng sát na, trong từng giây phút. Những tâm niệm, những suy tư, nghĩ tưởng trong giây phút trước đây, bây giờ đã khác đi hay không còn nữa. Tâm tánh của mình có khi hiền thiện như thánh nhơn, cũng lắm khi độc hại còn hơn ác quỉ. Mình chỉ thấy mọi người khác gian ác, mọi người khác nguy hiểm, mọi người khác sai lầm, đáng bị trừng phạt, đáng bị bỏ tù, đáng bị xử tử, để cho xã hội này, cho thế gian này, trong đó có mình, được sống bình yên, được hưởng sung sướng! Con người thường thấy là mình đúng, khi đòi hỏi phải trừng phạt thật nặng, đòi hỏi phải bỏ tù rục xương, đày đọa địa ngục, xô xuống hỏa ngục, những người khác phạm tội ác. Con người thường suy nghĩ, sáng chế, yêu cầu thi hành những hình phạt ghê rợn nhất để trừng phạt, trừng trị đích đáng những phạm nhân đã sát hại thân nhân mình và nghĩ rằng người quá cố sẽ vui lòng nơi suối vàng. Thực ra, đó là tâm trạng của chính mình muốn như vậy mà thôi. Người đã chết có nói gì đâu, có yêu cầu gì đâu, có đòi hỏi gì đâu?  Bởi vậy có câu: "Suy bụng ta ra bụng người... chết! ". 
 
Mấy ai nghĩ được rằng: nếu làm như vậy, cả hai gia đình phạm nhân và nạn nhân cũng đều thiệt hại một nhân mạng, đều cùng đau khổ như nhau.  Thỉnh thoảng báo chí cũng có đăng các tin rất cảm động, gia đình nạn nhân xin giảm tội, xin xử nhẹ tội, hay xin tha tội cho phạm nhân. 
 
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: 
Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.
Lấy ân báo oán, oán nghiệp tiêu tan. 
 
Con người thường nhân danh công lý, nhân danh tôn giáo, nhân danh lẽ phải, nhân danh thượng đế, nhân danh đủ các thứ có thể nhân danh được, để kết án, kết tội, trừng trị tất cả mọi người khác. Còn nếu mình phạm tội thì đáng được tha thứ, phải được tha thứ, người khác thì không đáng được! Cái chỗ bất công này là nguyên nhân chính, đưa tới xáo trộn, biến loạn trong xã hội là như vậy. Cuối cùng, người đạt được "trạng thái vô ngã" chính là người không còn chấp "cái ta" tầm thường như mọi người trên thế gian này thường chấp. Người đạt được"trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng rằng: "ta" không phải là  cái thân tứ đại nặng nề, và cũng không phải là cái tâm suy nghĩ lăng xăng lộn xộn thường ngày, bởi vì những thứ đó bị vô thường chi phối, nay còn mai mất, chợt hiện chợt biến, không tồn tại vĩnh viễn. 
 
Như vậy, "cái gì" tồn tại vĩnh viễn, không bị vô thường chi phối, "cái gì" bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, theo như Đức Phật chỉ dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh? Đó chính là "cái ta chơn thật", đó chính là "con người chơn thật" của tất cả chúng ta. Mục đích cứu kính rốt ráo tột cùng của Đạo Phật chính là nhằm khai mở, chỉ bày "con người chơn thật" đó cho mọi người biết được, hiểu được, ngộ được, nhập được, sống được. Người nào được như vậy tức là được giác ngộ và giải thoát, được an lạc và hạnh phúc hiện đời. 
 
Trong kinh sách, Đức Phật có dạy:  "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn". 
Nghĩa là trên trời dưới đất chỉ có "cái ta chơn thật" là điều độc nhứt đáng tôn trọng, đáng trân quí mà thôi. Cũng trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật có dạy: 
Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn. 
 Nghĩa là: Nếu chúng ta ngộ được, nhập được, sống được bằng "con người chơn thật" không tướng mạo, nên không dơ, không sạch, không tăng, không giảm, không kẹt nhị biên, thể nhập bất nhị pháp môn, thì tâm chúng ta không bị bất cứ cái gì có thể khủng bố, nên không còn sợ hãi, do không còn sợ hãi nên không có gì có thể khiến cho mình kinh khiếp hoảng sợ, chúng ta xa lìa được tất cả các chuyện điên đảo đảo điên, các chuyện mộng mơ mơ tưởng, các chuyện không thực ở thế gian, cuối cùng đạt được cảnh giới niết bàn vô sanh, không còn phiền não khổ đau, không còn sinh tử luân hồi. 

Đó mới chính thực là mục đích cứu kính của người theo đạo Phật bằng trí tuệ bát nhã. 

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy rằng: Người nào ôm ấp tâm niệm nó mắng tôi, nó chửi tôi, thì không phải là người trí, chỉ chuốc khổ vào thân thôi. Người nào không ôm ấp những tâm niệm như vậy, thì người đó dẹp được lòng sân hận. Nghĩa là chúng ta đã thấy rõ như trên, bất cứ ai dù bị mắng chửi, bị mạ lỵ hay không bị mắng chửi, không bị mạ lỵ, mà cứ ôm ấp tâm niệm đó trong lòng, thì chỉ chuốc lấy phiền não và khổ đau cho chính mình, có khi còn đem lại bất an cho gia đình, cho những người chung quanh nữa mà thôi. 
 
Trong suốt những năm dài thuyết pháp độ sanh, Đức Phật luôn luôn khuyến khích mọi người nên thực hành hạnh nhẫn nại, nhẫn nhịn đến mức rốt ráo, cao tột, trong kinh điển gọi là "pháp nhẫn ba la mật". Đức Phật luôn luôn hành pháp nhẫn nại, dù lắm khi Ngài cũng bị chỉ trích, bị chửi mắng, thậm chí bị tấn công. Nhẫn nại không bao giờ là dấu hiệu của sự yếu đuối, ươn hèn, kém cỏi, chủ bại, đầu hàng, nhục nhã. Trái lại, nhẫn nại là sức mạnh bất khuất, sức mạnh vạn năng, sức mạnh vô song của người tự chủ, của người đã ngộ được và sống được với "cái ta chơn thật", cho nên không còn sợ bị chúng khinh khi, không còn sợ chúng "được đằng chân lân đằng đầu", không còn sợ chúng "được nước làm tới". Tại sao vậy?  Bởi vì "cái ta chơn thật" không phải là tấm thân tứ đại, không có tướng mạo, cho nên không ai có thể xâm phạm được. Điều nên sợ, đáng sợ chính là mình không thể kham nhẫn được, không thể chịu đựng nỗi, không thể tự thắng mình, không thể tự chủ được bản thân và bản tâm mình trước những thử thách, trước những sóng gió của cuộc đời mà thôi. 

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: 
Chiến thắng trăm ngàn quân không bằng tự thắng mình.
Tự thắng tâm mình là điều cao quý nhứt. 
Nghĩa là chúng ta kham nhẫn được, thực hành được "pháp nhẫn ba la mật" là chúng ta đã "tự thắng tâm mình" rồi vậy. 
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
Hãy dứt trừ hết các tâm xấu của chính mình: tâm ghen ghét, tâm tà vạy, tâm vị ngã, tâm giả dối, tâm ngạo mạn, tâm khinh người, tâm tà kiến, cùng tất cả những hạnh bất thiện trong mọi thời mọi lúc, hãy luôn luôn thấy lỗi mình, không nói chuyện tốt xấu của người. Thấu hiểu được và thực hành được lời dạy trên đây của Lục Tổ thì không cần phải hỏi làm sao để cuộc sống được an lạc và hạnh phúc. Đó chính là an lạc và hạnh phúc vậy.  Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, chỉ cần tu hạnh "nhẫn nhục ba la mật", nghĩa là "nhẫn mà không thấy nhục", thì cũng đạt đến chỗ cứu kính gọi là "vô sanh pháp nhẫn". 
 
Vô sanh pháp nhẫn là công phu tu chứng do sức kham nhẫn, sức chịu đựng được muôn pháp trên thế gian xảy đến, mà chúng ta không sanh khởi một niệm nào cả trong tâm trí.  Tâm trí luôn luôn thanh tịnh, an ổn, tự tại, không xáo trộn, không lay động. Muôn pháp trên thế gian này không ngoài tám thứ, chia làm bốn cặp, đó là: "lợi và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc". Tám thứ đó còn gọi là "Bát Phong", hay tám ngọn gió của thế gian, không bao giờ ngừng thổi, hết cơn gió này lại đến cơn gió khác. Khi gió thổi hiu hiu, nhè nhẹ, chúng ta có thể kham nhẫn nổi một cách dễ dàng. Thí dụ như những lúc tai họa xảy tới chút đỉnh, gặp vài chuyện xui xẻo nho nhỏ, bị các chuyện thị phi không đáng kể, nhưng nhờ có những phước báo đã làm từ nhiều đời trước và ngay cả đời này, cho nên chúng ta có thể lướt qua dễ dàng. Hoặc là những lúc được lợi lộc nho nhỏ tới, được những lời khen tặng tán dương, hay những chuyện vui nho nhỏ xảy ra, chúng ta cũng bị động tâm, khó giữ được sự thanh thản bình yên.
 
Khi gió thổi thành những trận cuồng phong, gây tổn thất không thể lường được. Đó là những lúc tai họa lớn xảy đến dồn dập, họa vô đơn chí, nhẹ thì tan nhà nát cửa, nặng thì mất mạng. Chẳng hạn như vừa bị bệnh hoạn, vừa mất công ăn việc làm, vừa gặp tai nạn xe cộ, vừa gặp hỏa hoạn thiêu rụi nhà cửa, vừa bị chúng kiện đòi bồi thường bạc triệu! Hoặc những lúc tán gia bại sản, làm ăn thua lỗ, những lúc bị chúng bêu xấu, làm nhục trước công chúng, làm mất thanh danh, gây tai tiếng, bị chúng phỉ báng, vu khống, vu cáo, vu oan giá họa. Trong những trường hợp như vậy, chắc chắn chúng ta thế nào cũng bị động tâm, loạn tâm, điên cuồng, chán đời, bi quan, yếm thế, không thể giữ được sự thanh thản, bình yên, thanh tịnh được. 
 
Người đạt được "vô sanh pháp nhẫn" là người kham nhẫn, chịu đựng nổi "bát phong" của cuộc đời, còn gọi là người "bát phong xuy bất động". Nghĩa là con người trải qua tám gió nói trên mà vẫn như như bất động. Đó mới chính thực là con người có giá trị chơn thật, bất tùy phân biệt, nam nữ, học thức, địa vị, tướng mạo, dung nghi, xuất xứ, tôn giáo, tuổi tác, sắc tộc, địa phương, thời gian, tu sĩ, cư sĩ, đồng cư trên thế giới ta bà này. 
 
Tóm lại, con người tuy có tiền của nhiều, tài sản to, địa vị tốt, bằng cấp cao, kiến thức rộng, danh vọng lớn, tài năng giỏi, đến khi bị suy sụp, đến khi bị hủy báng, đến khi bị phê phán, đến khi bị khỗ nạn, nhưng không giữ được tư cách, không giữ được nhân phẩm, tâm hồn không giữ được bình thản, thanh tịnh, thì ắt không phải là con người có giá trị rồi. Hơn nữa, những thứ như tiền của, tài sản, địa vị, bằng cấp, kiến thức, danh vọng, tài năng, sắc đẹp, hình tướng, phẩm trật, đều là những thứ giả tạm, vô thường, không cố định, luôn luôn biến dịch, luôn luôn thay đổi, cho nên tất cả đều không thể dùng để thẩm định giá trị của con người. 
 
Theo giáo lý của Đạo Phật, con người ở trên thế gian này không được đánh giá qua các cách nhận định, các thước đo, các tiêu chuẩn, các khía cạnh và các căn bản trên đây về cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Con người có giá trị là con người biết ngắm nhìn cuộc đời, biết lắng nghe cuộc đời, biết kham nhẫn và can đảm nhìn thẳng những phiền và khổ đau, biết chuyển hóa tam chướng thành tam nghiệp thanh tịnh.  Con người có giá trị là con người biết chấp nhận tất cả những gì xảy đến với mình từ cuộc đời, từ lúc sống cho đến lúc chết, không mong cầu, không van xin, không sợ hãi, sẵn sàng đón nhận phiền não hay khổ đau, an lạc hay hạnh phúc. Con người có giá trị là con người biết hàng phục tâm mình bằng cách độ vô biên chúng sanh trong tâm thức mình vào niết bàn, mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ và biết an trụ tâm mình bằng cách bố thí, xả bỏ không chấp bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, không dính sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, như lời

Con người có giá trị là con người biết chiến đấu và chiến thắng nội tâm của chính mình, biết trưởng dưỡng tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, biết lấy ân đức đáp hận thù, như lời Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú. Con người có giá trị là con người biết sống với "tâm bình thường". Kinh sách có câu: "Bình thường tâm thị đạo". Con người có giá trị là con người "đối cảnh vô tâm", tức là con người vẫn sống trong cuộc đời như bao nhiêu người khác, nhưng không có tâm tham sân si, cho nên tâm không loạn động. 
 
Con người có giá trị là con người dám bước chân lên con thuyền không đáy, trôi giạt giữa trời nước mênh mông. Con thuyền đó chính là con thuyền bát nhã, trời nước mênh mông chính là cảnh giới trầm luân, khổ hải vạn trùng ba. Con người có giá trị theo quan niệm của nhà Phật là con người giác ngộ được bản ngã chân thật, bên ngoài không chấp trước, dính mắc chuyện trần đời, mắt trông thấy sắc rồi thôi, tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không, cho nên bên trong không có niệm khởi và giải thoát được những phiền não và khổ đau. 
 
Con người có giá trị là con người bát phong xuy bất động, là con người có cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Đó chính là đại sự nhân duyên mười phương tam thế chư Phật thị hiện ở đời, để khai thị cho con người ngộ nhập vào chân lý bất biến của vũ trụ vậy.
 
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ


*** Ý NGHĨA LỄ KÍNH CHƯ PHẬT VÀ THỜ PHẬT

LỄ KÍNH CHƯ PHẬT

Thích-Chân-Tuệ
Cơ-sở Phật-học Tịnh-Quang Canada

Trrong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Đức Phật, chúng ta đều dùng thân khẩu ý, tam nghiệp thanh tịnh, thường tu hạnh lễ kính chư Phật. Nghĩa là chúng ta thường xuyên một lòng thành tâm kính lễ chư Phật mười phương, điều này là lẽ đương nhiên đối với những người Phật Tử. Điều quan trọng cần lưu ý là chúng ta không những kính lễ mười phương chư Phật quá khứ, tức là chư Phật đã thành, mà chúng ta luôn luôn kính lễ chư Phật trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai.

Chư Phật hiện tại và vị lai là những vị nào, ở đâu, làm sao chúng ta biết được mà kính lễ?
Thông thường ở thế gian, chỉ khi nào các bậc thánh nhân viên tịch, các nhà hiền triết qua đời rồi, người đời sau mới nhận ra được và tôn sùng, chiêm bái. Còn khi các vị đó đương thời, tại thế, vì mê muội, vì ganh tị đố kỵ, vì gièm pha phỉ báng, nói chung, vì vọng tâm tham sân si che lấp, không có bao nhiêu người thấy được, hiểu được, cảm nhận được sự siêu phàm, sự thanh cao bên trong cái hình tướng thế nhân của các vị đó.

Đó là nói về các bậc chân tu thực học, đạo cao đức trọng, còn đối với mọi người khác thì sao?

Con người thường tưởng tượng rằng thánh nhân phải là những người có hình tướng dị thường, có hào quang tỏa khắp thân, có phép lạ chữa lành bệnh tật, có thần thông đi mây, cưỡi gió, lướt trên mặt nước, hô phong hoán vũ, làm được những chuyện kỳ đặc khác người. Cho nên con người thích chiêm ngưỡng, lễ lạy các vách tường, nóc nhà, gò mối, ụ đất, buồng chuối, gốc cây cao, ngọn cây sao, khe suối, hốc đá, hang sâu, bất cứ chỗ nào có người phao tin rằng có tiên thánh hiện ra nơi đó!

Hoặc là tôn sùng, lễ bái các người có hình tướng dị kỳ, râu tóc xồm xoàm, mười năm chưa tắm, bụi bặm dơ bẩn, móng tay cả tấc, thậm chí có người không bận quần áo gì cả!  Hay sùng bái các người làm những việc khác thường như ngồi trên bàn chông, đi trên đống lửa, quanh năm ngủ ngồi không nằm, ăn cơm muối mè, không dùng thức ăn nào khác, chỉ uống nước lạnh, không chịu uống thuốc men gì cả!

Tại sao có nhiều mê tín dị đoan như vậy, kể cả những người gọi là học thức, trí thức thế gian, bằng cấp này nọ? – Bởi vì con người thường quá quan tâm đến phương diện vật chất, chỉ chú trọng đến cái thân xác của con người, hình tướng bề ngoài, mà quên đi phần tâm linh.

Ngay khi còn sống tại thế gian, cái thân xác này còn không phải là mình, huống là sau khi chết.  Tại sao vậy? -  Bởi vì chúng ta ai ai cũng muốn được trường sanh bất tử, muốn thân xác này trẻ mãi không già, đẹp mãi không nhăn, khỏe mãi không đau, sống hoài không chết, nhưng nào có được đâu?  Đến khi nghỉ thở hai hôm là không ai dám đến gần!

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
Nhứt thiết chúng sanh
giai hữu Phật Tánh.

Nghĩa là bất cứ chúng sanh nào, bất cứ người nào trên thế gian này, không phân biệt hình tướng, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt sang hèn, không phân biệt địa vị, không phân biệt nam nữ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt học thức, không phân biệt xuất xứ, không phân biệt gì hết, mọi người đều có Phật Tánh đồng như nhau, chỉ vì mê ngộ không đồng, nghiệp chướng khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài có sự khác biệt.

Chính vì con người chấp chặt cái hình tướng bên ngoài cho nên phân biệt tốt xấu, phải quấy, đúng sai, không hiểu được ngoài các thân xác ra, chính mình có Phật Tánh, không hiểu được mọi người đều có Phật Tánh như nhau. Do đó phiền não khởi lên, cuộc đời chìm đắm trong các sự tranh chấp, hơn thua, kiện thưa, đấu tranh, giành giựt, phê phán, chỉ trích, chiếm đoạt.

Nếu thực sự hiểu được mọi người đều bình đẳng, đều có Phật Tánh như nhau, thì con người không dám xúc phạm lẫn nhau, dù bằng hành động, lời nói hay ý nghĩ, huống là âm mưu hại nhau, kiện nhau ra trước ba tòa quan lớn, đòi bồi thường vài triệu đô la, để cả nhà xúm nhau chia chác!  Thiệt là tội nghiệp lắm thay! Con người tạo ác nghiệp mà không hay, không biết! Hoặc biết mà cố phạm!

Chư Tổ có dạy:
Chúng sanh nhìn chư Phật là chúng sanh, cho nên phiền não khổ đau.
Chư Phật nhìn chúng sanh là chư Phật, cho nên niết bàn an lạc.

Nghĩa là những người phàm phu không biết mình có Phật Tánh, không biết mọi người đều có thể thành một vị Phật trong tương lai, thường mang tâm trạng tự ti, hèn kém, luôn luôn mang “cặp kiếng chúng sanh”, đó là cặp kiếng kỳ thị, bất bình đẳng, cho nên nhìn thấy tất cả mọi người chung quanh đều là chúng sanh như mình, thường là tệ hơn mình, xấu xa hơn mình, cho nên sanh tâm chán nản, ghét bỏ, khinh khi, giận tức, bực dọc, từ đó phiền não khổ đau bắt đầu.

Nói một cách thông thường đó là: suy bụng ta ra bụng người. Người mang cặp kiếng màu đen, nhìn chỗ nào cũng thấy tối thui, nhìn người nào cũng tưởng là ma đen thùi!

Còn chư Phật từ nhãn thị chúng sanh, thương nhìn cuộc đời bằng Phật nhãn, với tâm bồ đề giác ngộ, với “cặp kiếng bình đẳng”, cho nên nhìn thấy rõ ràng người nào cũng có Phật Tánh, cũng có khả năng thành một vị Phật, nếu giác ngộ, biết quày đầu hướng thiện, từ bỏ nghiệp chướng.

Trong nhà Phật, mọi người trân quí Phật Tánh của nhau, nên thường chắp tay trước ngực, cúi đầu, chào nhau bằng câu “Mô Phật” hay “A Di Đà Phật”, ngụ ý rằng: “Búp sen xin tặng người.  Một vị Phật tương lai”.

Bởi vậy cho nên, tu hạnh “Lễ Kính Chư Phật”, chúng ta tạo không biết bao nhiêu phước đức, được không biết bao nhiêu công đức, tránh không biết bao nhiêu phiền não khổ đau.

Phước báu này sẽ giúp đỡ chúng ta giải trừ nghiệp chướng đã tạo từ trước, được tai qua nạn khỏi, gặp được những sự may mắn trong cuộc sống hàng ngày. Trước đây, những khi gặp may, gặp hên, chúng ta thường nghĩ là tự nhiên có, hay do trời cho, hoặc do cầu nguyện. Đôi khi được phước báo lớn, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chúng ta cho là phép lạ nhiệm mầu, chứ có biết đâu đó chính là phước báo do chính mình tạo tác, giờ đây chính mình được hưởng, gọi là “có phước” vậy mà!

Từ đó chúng ta sống trong sự cảm thông, tương kính, cho nên cuộc đời của chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc, không nghi, dù chúng ta đang sống ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
 


Ý NGHĨA THỜ PHẬT

TÁC GIẢ: NHẬT MINH

Theo truyền thống văn hóa của Phật giáo, mỗi khi tư gia Phật tử nào sau khi sửa chữa hoặc xây dựng xong ngôi nhà mới thường phát nguyện thỉnh tượng Phật về thờ và để cho sự thờ tự được trang nghiêm, chu toàn thì thỉnh quý Sư, quý Thầy về cử hành nghi lễ An vị Phật.
 
An vị Phật, trước hết là chúng ta thỉnh một tượng Phật (hay Bồ tát) tôn trí trên bàn thờ Phật tại tư gia để khi nhìn thấy tượng Phật trên bàn thờ đó mà chúng ta nhớ vị Phật trong lòng của mỗi chúng ta và cũng để làm duyên cho mọi người khác phát tâm thờ Phật cùng với chúng ta có thể nhìn thấy Phật mà phát huy Đức Phật trong lòng của mình lên.

Việc phát tâm thỉnh Phật về thờ là một việc làm vô cùng đúng đắn, để "mỗi ngày mỗi chiêm ngưỡng" nhưng đó vẫn chưa đủ, bởi khi chúng ta thờ Phật, mà chúng ta không hiểu hết  ý nghĩa của việc thờ Phật là để ngày đêm chiêm ngưỡng, tự thức tĩnh “Phật tâm” của mình để đừng làm việc xâu ác thì cũng chưa thật sự trọn vẹn.

Phật dạy, Phật pháp tại thế gian bất ly thế gian giác, cũng có thể hiểu ở Phật ngay trong lòng mình, không ở đâu xa, tâm ta mà sáng thì là tâm Phật, tâm đen tối thì là tâm tà. Việc thỉnh Phật về thờ là để phương tiện làm cho tâm mỗi ngày mỗi sáng lên, đấy mới là ý nghĩa đích thực của việc thờ Phật. Ca dao Việt Nam cũng có câu:
Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ
Thứ ba tu chùa
Tu ở đâu cũng là tu, tại gia, hay chợ, hay chùa đều là tu cả, bởi tu là sửa mình, sửa mình từ xấu thành tốt, sửa mình từ việc chư toàn thiện thành toàn thiện. Nên các câu trên cần phải hiểu đúng đắn rằng không ngoài sự tướng thế gian, không ngoài công việc thế gian mà có Phật pháp. Chính trong công việc thế gian hàng ngày như việc nhà, việc chợ nếu biết “bỏ chín làm mười” thì đều có Phật. Phật ở trong đó với những tinh thần sáng suốt giác ngộ của những người hiểu Phật.

Vì vậy, nếu chúng ta thờ Phật bằng một tấm lòng thành mà thiết bàn thờ Phật và thỉnh chư Tăng về cử hành nghi lễ an vị Phật một cách trang nghiêm thanh tịnh thì chúng ta phải hiểu ý nghĩa của việc thờ Phật, khi ấy việc thờ Phật của chúng ta mới thật sự có ý nghĩa và việc thờ Phật của chúng ta mới đem lại sự an lạc cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội.

Vì vậy khi người Phật tử đã phát tâm thờ Phật thì cần có sự tinh tấn, cố gắng hàng ngày phải chiêm ngưỡng tượng Phật tôn trí trong nhà mình hoặc trên các chùa để phát huy Đức Phật ở trong lòng của chúng ta lên. Được như thế thì sự thờ Phật của chúng ta mới đầy đủ ý nghĩa và mới đem lại cho chúng ta sự an lành thiết thực mà Đức Phật đã dạy bảo cho chúng ta.

N.M

*** (THƠ CỦA BA) MỪNG SINH NHẬT CON GÁI



Mừng con sinh nhật tuổi đôi mươi

Tuổi của vàng son của nụ cười

Thuyền lướt trên sông chưa đổ bến

Trăng soi sóng nước lững lờ trôi

                    ***
Trăm hoa đua nở khoe màu sắc

Ngàn bướm tung tăng lượn ngập trời

Mong ước tình duyên Cha Mẹ định

Đem niềm hạnh phúc trọn đôi nơi.


Tác giả   XUÂN PHONG

*** LOÀI HOA BÌNH DỊ , HOA LỤC BÌNH (Ba Và Con Gái)

                                                                  HOA LỤC BÌNH

Tác giả: Thích nữ Diệu Nhẫn


Nắng hồng bắt đầu tươi thắm trên muôn ngàn cây cỏ. Các chú chim non trên những cành Thủy Liễu ríu rít hòa lên những điệu thanh thót. Thủy Liễu là một cây dễ sanh sôi ven bờ sông rạch miền Nam, người dân Bến Tre gọi Thủy Liễu là cây Bần, cái tên mộc mạc nghèo nàn, lam lũ như cuộc đời của họ. Cái tên xinh xắn ba đặt cho em cũng là Thủy Liễu.

Chiến tranh đã qua, nó đã cuốn trôi tất cả tuổi thanh xuân của ba, mái ấm gia đình mà ba đã tạo. Ba không giữ được gì, kể cả trái tim người phụ nữ mà ba yêu quí nhất. Nghĩ đến những lúc đương thời, ba cũng là một người thanh niên thanh lịch, nhưng bây giờ, ba an phận với kiếp sống lam lũ của mình. Ba chỉ còn sót lại một niềm an ủi duy nhất là hạt giống của ba, trồng trên đất mẹ trổ hoa kết trái, chính là bé Thủy Liễu.

Gia sản của ba và Thủy Liễu là căn nhà lá nhỏ thô sơ, nằm sát bờ sông, chỉ vừa đủ để một chiếc giường tre, cạnh bàn ăn cơm nhỏ. Một chiếc xuồng con, là phương tiện hằng ngày ba đưa khách sang sông kiếm tiền nuôi Thủy Liễu. Liễu thương lắm ngôi nhà tranh nhỏ bé, tổ ấm chứa chan bao tình thương mà ba dành cho em. 

 Em cũng cưng lắm chiếc xuồng con xinh xắn, nó thường chở Liễu băng mình trên những con sóng nhỏ đến chợ, mua bánh, mua quà. Nhưng người mà em thương quý nhất là ba, làm lụng suốt ngày tay ba chai cứng. Bóng ba đổ xuống bờ sông trong những buổi trưa hè nắng gắt. Ba đã đội những cơn mưa tầm tã giống như bao khổ đau của đời trút hết lên vai để đưa khách sang sông.

Mỗi ngày đưa khách sang sông, tiền chỉ đủ trang trải trong ngày, tiền còn thừa lại ba cho Liễu chạy ù ra tiệm, mua bánh tai heo, "bắng bu" là bánh bò đấy. Ăn liền !  Ba vừa là cha cũng vừa là mẹ, ba nấu cơm, ru Liễu ngủ, tất cả đều do ba làm tất. Ban ngày Thủy Liễu thường chơi một mình, chỉ có buổi tối nhõng nhẽo với ba chút xíu. 

Liễu vẫn thường chui rúc vào lòng ba, đòi ba kể chuyện hay hát ru cho ngủ. Ba kể chuyện thì hay lắm, chớ còn hát thì giọng ồ ề, chẳng hay tí nào. Sáng nào thức dậy cũng có sẵn ly sữa và cái "bắng bu" trên bàn mỉm cười chờ Liễu. Hôm nào Liễu bệnh thì phải biết. Liễu đợi ba dỗ dành rồi mới chịu uống thuốc. Nhà nghèo, Liễu không có đồ chơi gì cả, chỉ có những con trâu, cái nồi, cái chén do ba nắn bằng đất khi vắng khách. Ba còn lấy thân ba làm xe cho Liễu chạy.

Ba đặt Liễu trên vai, hai bàn tay nhỏ xíu của Liễu nắm lấy hai tai ba làm tay lái, thế là Liễu tha hồ phùng má "ụn ụn" chạy. Còn những buổi trưa hè nóng bức, ba lấy xuồng chở Liễu đi cặp theo hàng Thủy Liễu hái những quả chín vàng cho em ăn. Liễu tinh nghịch đập nước văng tung tóe, ướt cả mình Liễu và ba. Nhưng ba không rầy mà còn cười vui, trước nụ cười thơ dại của Liễu. Liễu biết nhõng nhẽo cũng hư chút chút, nhưng nhõng nhẽo thì thích lắm, làm sao bỏ được !

Những buổi cơm thịnh soạn của cha con Liễu chỉ có vài chú cá bống con kho mỡ hành, Liễu ăn toàn phần thịt, còn ba chỉ ăn xương mà thôi. Nhiều lúc ba đang ăn cơm, có khách kêu đò ba vội đứng lên đi đưa khách ngay, ít có bữa nào Liễu được ăn cơm với ba trọn buổi. 

Cạnh nhà Thủy Liễu có ngôi cổ tự Quan Âm, sáng nào cũng vậy, khi nghe tiếng chuông chùa ngân vang là Thủy Liễu giật mình thức giấc. Ba cũng dậy để đưa những cô bán hàng sang sông cho kịp buổi chợ. Ba thường nói mình là người Phật tử lâu năm. Những buổi chiều mưa khách vắng, ba thường dẫn Liễu sang chùa. Ba sắm cho Liễu một bộ quần áo mới, để ăn mặc lành lặn khi đi lễ Phật. Phần ba chỉ có chiếc áo sơ mi cũ và một chiếc quần ka ki rách cả hai đầu gối. Khi Liễu hỏi 

- Sao ba không sắm cho ba một bộ đồ mới để đi lễ Phật ?
- Ba không cần đồ mới, khi vào chùa ba đi bằng cửa sau làm công quả, khi về trời tối cần gì đồ mới ? Còn đưa đò mà mặc đồ mới thì mau cũ lắm con à !

Lễ quy y ảnh hưởng rất nhiều đến nếp sống sinh hoạt của ba. Ba thường nhắc Liễu về giới cấm sát sanh và cấm uống rượu vì rượu làm ba say. Thầy dạy thì giờ uống rượu hút thuốc là lãng quên thực tại, mà ba đâu có muốn lãng quên con gái cưng của ba !

Những ngày lễ hội, khách sang sông khá đông. Dư được ít tiền, ba "cắc ca cắc củm" mấy tháng, đưa cho Liễu rồi bảo : "Con đem cúng dường cho có phước". Liễu bỏ tiền vào thùng phước điền và thầm khấn : "Tiền này là của ba con, xin Phật ban phước cho ba, để ba được bình an mà nuôi con hoài…"

Bao nhiêu tình thương ba dành hết cho Liễu, đáp lại Liễu cũng rất ngoan, lúc nào cũng quấn quít bên ba. Đi học Liễu rất chăm. Vì thương ba cực khổ nên niên học nào Liễu cũng đạt học sinh giỏi. Thời gian thấm thoát đã gần cuối năm học lớp chín. Kỳ thi văn năm ấy nhà trường cho đề thi về mẹ. Liễu cảm thấy bối rối vô cùng, vì mặt mẹ Liễu còn không biết, làm sao kể về mẹ được. Bài thi thật kém điểm. Liễu về nhà hỏi ba :

- Ba ơi ! Má con đẹp không ba ? Sao má không ở chung với ba con mình hả ba ?
Ba trầm lặng, đăm đăm nhìn ra bờ sông rồi nói với Liễu, giọng như lạc hẳn đi :
- Má con đẹp lắm, bởi ba nghèo nên ba và má đã xa nhau khi con mới lên hai tuổi.     

Nghe ba nói vậy, Liễu lao vào lòng ba khóc nức nở, ngước mắt lên Liễu thấy ba cũng khóc. Nhưng một lúc rồi thôi, vì ba thương Liễu lắm ! Mà Liễu cũng thương ba nữa nên không dám khóc nhiều vì sợ ba buồn.

Năm nay là năm đầu tiên Liễu được dự lễ Vu-lan tại chùa Quan Âm. Chùa năm nào cũng tổ chức, nhưng lúc còn bé Liễu chỉ thích ăn chè thôi chứ có hiểu gì đâu. Với chủ đề "Một bông hồng cho mẹ", thầy thuyết pháp thật hay, làm cho mọi người đều rơi nước mắt. Liễu cũng đón nhận một bông hồng, nhưng nước mắt em không rơi, cũng không cảm nhận được hương vị của cánh hồng. Em chợt nhớ đến ba và chạy một mạch về nhà. Ba đang ngồi vá chiếc áo cũ cho em.

- Ba ơi ! Bông hồng tượng trưng cho má dù con không biết má, con muốn có bông gì đó tượng trưng cho ba.
- Bông tượng trưng cho ba…, bông gì chẳng được. Để ba tìm cho con.

Ba đi nhanh ra trước sân nhà, nhưng không tìm được cành hoa nào cả. Nhìn thấy đám bông lục bình màu tím đang trôi bềnh bồng giữa dòng sông. Ba bơi chiếc xuồng ra giữa dòng hái một cành hoa lục bình nhỏ nhất. Cánh hoa màu tím u buồn như cuộc đời ba. Liễu sung sướng đón cành hoa lục bình từ tay ba. Em cảm thấy thương ba vô hạn.

- Ba ơi ! Con muốn nói với ba điều này.
- Gì vậy con ?
- Ba có biết rằng con rất hãnh diện là con của ba và con rất thương ba không ? 


Rồi Liễu ôm chầm lấy ba khóc như mưa. Ba cũng khóc, những giọt nước mắt yêu thương của ba rơi ấm bờ vai gầy của Liễu. Dù buổi Vu-lan ban tổ chức có lãng quên hay lu mờ hình ảnh của người cha, nhưng đối với Liễu, ba là người mà Liễu thương yêu nhất. Cũng từ đó Liễu thương lắm những cành hoa lục bình màu tím.

Tháng chín năm ấy nước lũ đổ về, nhà Liễu bị ngập tất cả, chỉ còn có chiếc giường tre là khô ráo. Lúc này ba hối hả chở giúp đồ của cô bác hàng xóm di cư lên miền cao. Liễu thì co ro trên chiếc giường học bài. Đến chiều tối không thấy ba về. Liễu đứng ngồi không yên, vô cùng lo lắng cho ba. Đợi mãi đến nửa đêm, chú Ba hàng xóm chạy sang gọi Liễu :

- Liễu à !
- Dạ, chú Ba gọi con. Vừa nói Liễu vừa vặn to ngọn đèn dầu lên.
- Ba mày nhắn tao biểu mày ở nhà cứ yên tâm ngủ đi, đừng chờ ba về.
- Ba con sao hả chú ?
Chú Ba ấp a ấp úng rồi ngập ngừng trả lời :
- Ờ… ờ.. ba mày nhậu xỉn ngủ ở nhà thằng Hai rồi.

Nói xong chú đi một nước. Đêm đó Liễu không tài nào ngủ được, vừa nhớ ba, vừa lo sợ : "Có khi nào ba uống rượu đâu mà xỉn ? Chắc ba có chuyện gì rồi…" Nghĩ vậy Liễu úp mặt vào gối khóc nức nở, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Đến sáng thức dậy thì Liễu thấy chú Ba kè ba về. Chân ba sưng to. Mới vừa nhìn thấy Liễu đã òa khóc, chạy nhanh đến bên ba, dìu ba vào nhà. Ba ngồi xuống giường, tay vuốt tóc Liễu, ba nói :

- Ba có sao đâu mà con khóc ? Hồi tối ở nhà con có trông ba không ?
Liễu không nói gì, chỉ ấm ức khóc. Thấy vậy chú Ba bảo :
- Nín đi con, ba mày không sao rồi. Chiều qua khi đưa cô Năm sang vườn trở về, ba mày thấy bông lục bình đẹp quá nên lội vào bờ đìa hái cho mày, không may bị rắn cắn. Nhưng bây giờ đỡ lo rồi.
Liễu ngước lên nước mắt lưng tròng hỏi chú Ba :
- Sao hồi tối chú Ba nói dối con ?
Ba cười hiền lành rồi thay lời chú Ba :
- Ba không cho nói vì sợ con lo.

Nghe vậy Liễu thấy thương ba vô hạn, nước mắt em lại ràn rụa. Những ngày ba bệnh, lần đầu tiên Liễu thay ba đưa khách sang sông. Bởi ba hiền lành nên bà con thương lắm, vắng ba đưa đò ai cũng hỏi. Khi nghe ba bệnh cô bác đều ghé thăm làm cho Liễu cũng bớt lo ! Chứ tiền đưa đò hàng ngày không đủ mua thuốc cho ba.      
         
Càng lớn Liễu càng trở nên xinh đẹp thì ba càng gầy ốm, già thêm. Tóc ba đã điểm những hạt trắng đục. Học lớp càng cao tiền càng nhiều, mỗi lần xin tiền ba, Liễu cảm thấy đau buốt tim mình nhưng biết làm sao hơn. Những buổi nghỉ học Liễu muốn thay ba đưa khách sang sông, nhưng ba không cho, ba sợ nắng mưa sẽ làm Liễu bệnh.

Một hôm trời mưa tầm tã, Liễu đi học về ướt hết cả người. Đêm đó Liễu bị sốt cao. Ba vội vã bế Liễu trên tay chạy sang hàng xóm mượn xuồng máy đưa Liễu xuống bệnh viện. Xuống đến bệnh viện, Liễu được đưa vào phòng cấp cứu. Ba ở ngoài đứng ngồi không yên. Một giờ sau Liễu được chuyển xuống trại. Bác sĩ nói Liễu không sao, ngày mai có thể xuất viện rồi. Nghe bác sĩ nói vậy ba như trút bỏ được gánh nặng ngàn cân. Khi tỉnh lại, Liễu thấy ba ngồi bên cạnh mình. Thấy Liễu tỉnh, ba mừng lắm, có cả những giọt nước mắt long lanh trong mắt ba mừng theo. Chợt Liễu thấy một cô y tá nhìn ba, mỉm cười rồi hỏi :

- Đây là con gái anh à ! Nó bệnh gì vậy ?
- Dạ con tôi bị cảm sốt. Nói xong ba quay sang hỏi Liễu :
- Con có muốn ăn gì không
- Dạ con muốn ăn cháo ba ơi !
Ba vội vã đi ra ngoài mua cháo cho Liễu. Liễu liền hỏi cô y tá :
- Cô quen ba cháu à ! Cô y tá cười thật tươi rồi đáp :
- Ba cháu thường đến đây để bán máu, nên cô nhớ khuôn mặt ba cháu.

Liễu nghe như trước mắt mình tối sầm lại, mạch máu ngừng không chảy về tim. Em nghẹn ngào không thốt nên lời : "Ba ơi ! Ba đã bán máu mình, mua sách vở cho con đi học, mà bấy lâu nay con đâu có biết".
Thấy Liễu nghẹn ngào cô y tá hỏi :
- Cháu có sao không ?
- Dạ không.

Thấy ba từ xa đi vào Liễu vội lau khô hai hàng nước mắt, gượng nở nụ cười để cho ba đừng biết rằng mình vừa mới khóc. Khi xuất viện về, Liễu quyết định không đi học nữa vì thấy ba quá cực khổ để lo cho việc học của Liễu. Xa rời sách vở, bạn bè, xa cả chiếc áo dài thân thương, Liễu cũng buồn lắm. Liễu nhìn thấy trong tập vở, bút mực, quần áo thấm từng giọt máu, mồ hôi của ba. Khi nghe Liễu nói mình nghỉ học, ba rầy suốt cả mấy ngày. Ba buồn lắm và khuyên Liễu nên đi học lại. 

Ở nhà buồn vô hạn, chợt nghe tiếng chuông chùa ngân vang trầm bổng, Liễu cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản. Liễu vội sang chùa lễ Phật để cầu nguyện cho ba được bình an, còn Liễu thì có việc làm để phụ giúp ba, cho ba bớt đi phần cực khổ. Khi nghe Thầy thuyết bài pháp : 

"Đứa con hiếu thảo yêu thương cha mẹ thì phải nuôi chí nguyện xuất gia mới mong đền đáp được công ơn cha mẹ". Liễu như bừng tỉnh, đến thưa với Thầy và nói ý định mình muốn xuất gia. Thầy trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu rồi hỏi Liễu :

- Con có xin ý kiến ba chưa ? Liễu nói dối rằng đã xin rồi. Thầy nói :
- Chùa Thầy ở thôn quê là chùa Tăng, nếu con muốn đi tu thì Thầy sẽ dắt con lên thành phố, gởi con ở một chùa Ni, ở đó cũng thuận tiện cho việc tu học của con. Liễu gật đầu đồng ý và thưa Thầy ra về.
Đến nhà thấy ba vẫn chưa ăn cơm, ba còn chờ Liễu. Ba cười vui vẻ không còn giận Liễu nữa, ba gọi :
- Đi đâu về trễ vậy ? Ăn cơm đi con.

Mâm cơm chỉ có "cơm hẩm cá hiu" mà Liễu ăn ngon vô cùng. Vừa ăn Liễu vừa nhìn ba. Ba đã già quá rồi, mặt ba đen nám bởi nắng buổi trưa hè, đôi mắt ba quầng thâm, những vết chân chim hằn sâu ở khóe mắt ba, hai má ba hóp lại, tóc ba gần như bạc trắng, hai tay ba đen và chai cứng. "Ôi ba ơi ! Biết bao giọt mồ hôi và nước mắt của ba đã đổ xuống những hạt cơm này để nuôi con khôn lớn".

- Liễu ăn cơm đi con. Ba gắp miếng xương bỏ vào chén mình còn thịt thì bỏ sang cho Liễu. Liễu nghe mắt mình cay cay và môi mình mặn đắng. Cơm xong Liễu dọn dẹp.
Ba nói :
- Liễu à ! Ngủ đi con, khuya lắm rồi. 

Từ khi Liễu lớn, ba để Liễu ngủ trên chiếc giường tre một mình. Ba nằm ngủ trên chiếc võng đã cũ rách. Có chiếc mền duy nhất ba cũng dành cho Liễu. Nghe tiếng thở dài của ba biết ba chưa ngủ, Liễu bước xuống giường vặn ngọn đèn dầu lên.

Ba hỏi : - Sao không ngủ đi con ?
Liễu ấp úng không biết nói sao, em cố gắng hết sức mới nói thành lời :
- Ba ơi ! Con có việc muốn thưa với ba.
Thấy sự bối rối của con, chắc có chuyện gì đây. Ba ngồi dậy :
- Con nói đi.
- Ba ơi ! Con muốn xin ba cho con xuất gia.
Ba không nói một lời nào cả. Ba lắp bắp tìm lấy điếu thuốc hút. Liễu và ba cùng im lặng. Nhưng rồi không còn chờ được nữa, Liễu xà vào lòng ba khóc nghẹn ngào.
Ba vuốt tóc Liễu nói trong xúc động :
- Nếu con muốn xuất gia thì ba cũng đồng ý. Đừng khóc nữa con, đừng khóc nữa.  

Liễu muốn nói thật nhiều với ba nhưng không sao nói được, nước mắt cứ ràn rụa. Ba cũng khóc. Như xúc động với tình cảm của cha con Liễu, bên hiên nhà cũng nhỏ từng giọt mưa tí tách. Ba đã đồng ý, và ngày Thầy dắt Liễu đi lên thành phố tu học cũng đến. Ba lục hết những đồng tiền còn sót lại dúi vào tay Liễu, rồi lấy xuồng đưa Thầy và Liễu sang sông.

Bước lên bờ Liễu nhìn lại mái nhà lá cũ nát của mình, bờ sông thân thương, con xuồng bé nhỏ đã sống với Liễu từ bé. Dòng sông như ngừng chảy, hàng Thủy Liễu cũng nghẹn ngào trong buỗi tiễn đưa. Còn ba, ba già nua cằn cỗi đứng trên chiếc xuồng con đang rưng rưng nhìn Liễu. Từ đây Liễu sẽ xa nơi này.
Liễu quay mặt đi để giấu hai hàng nước mắt.
- Thưa ba con đi.

Nói xong Liễu đi thật nhanh, không dám quay lại nhìn ba, vì sợ quay lại chắc em không đi được nữa. Nhưng Liễu vẫn cảm nhận được sau lưng, dáng cha gầy đổ xuống bờ sông, ven hàng Thủy Liễu, chạy dài hun hút đến cuối rặng dừa xanh, thẫn thờ như vừa mất đi một bảo vật vô giá. Thầy gởi Liễu tu ở chùa Thuận Bài. Cuộc sống nơi đây thật êm đềm. Từ ngày Liễu đi đến nay đã hơn 5 tháng. Liễu đã được xuất gia và được Thầy đặt tên mới là Diệu Nhẫn. Diệu Nhẫn cũng đã phần nào nguôi ngoai nhớ ba.

Chiều hôm ấy Diệu Nhẫn nhận được lá thơ ba từ tay Thầy. Em mừng đến rơi nước mắt. Mở thơ ba ra, Nhẫn nhìn thấy nét chữ ngoằn ngoèo của chú Ba. Khi còn bé, ba sống trong thời loạn ly, mà nhà nội lại nghèo nên ba không có đi học. Lá thơ tuy chú Ba viết, nhưng Nhẫn vẫn thấy gương mặt hiền lành của ba trong thơ. 

Thơ viết : "Liễu con, hôm con xuất gia Thầy có báo cho ba biết. Ba rất mừng, nhưng đường quá xa ba không đi dự lễ xuất gia của con được, ba buồn lắm. Từ ngày con đi ngôi nhà trở nên trống vắng quá, chiếc xuồng nhỏ của con cũng buồn thiu, khách sang sông cũng vắng hơn lúc con còn ở nhà. Ba biết con thương lắm chiếc xuồng con và mái nhà lá. Nhưng đành vậy con à, ba đã sang chiếc xuồng và mái nhà lại cho một đôi vợ chồng khác rồi. Ba về quê sống với ông bà nội. Con hãy yên lòng mà lo tu học, đừng lo gì cho ba nghe con. Ba gởi cho con gái ba ít tiền để mua sách vở, ba chỉ có bấy nhiêu thôi, ở với Thầy ráng hiền lành ngoan ngoãn nghe con. Ba của con."

Diệu Nhẫn cầm số tiền ít ỏi của ba gởi trên tay, những giọt nước mắt ở đâu không biết tuôn xuống mặn môi. Tiền này là ngôi nhà lá thân thương, chiếc xuồng yêu dấu của Nhẫn, ba đã bán đi để gởi tiền lên cho Nhẫn. Ba ơi ! Suốt cuộc đời ba đã hy sinh vì con. Ba ơi ! Dù sau này con có trở thành gì gì đi nữa, thì con vẫn là đứa con gái bé bỏng của ba.

Năm nay Diệu Nhẫn được dự lễ Vu-lan, cánh hồng đỏ thắm năm nào giờ đã đổi thành cánh bông vàng rực. Nhìn cánh hoa hồng không hương vị ấy, Nhẫn lại nhớ đến ba và thèm một đóa hoa lục bình màu tím từ bàn tay ba trao cho Nhẫn năm nào. Trong làn nước mắt, Nhẫn như nhìn thấy bóng ba trên chiếc xuồng con bên bờ Thủy Liễu vẫn còn chờ Nhẫn về thăm.

Ba ơi ! Con sẽ về để đón cánh hoa lục bình từ tay ba. Lau đi dòng lệ nóng, Nhẫn đến quỳ trước điện đường, cầu xin hồng ân Tam Bảo che chở cho ba ở quê nhà luôn được bình an, và thầm nguyện với lòng sẽ cố gắng tu học, để đền đáp thâm ân của ba suốt cuộc đời đã lao nhọc vì con.



http://www.chuabang.com