Sunday, July 10, 2011

*** TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP




TKN Thích Nữ Chân Liễu


Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt, xuyên qua kinh nghiệm bản thân chứng đắc giác ngộ của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và chư lịch đại Tổ Sư đắc đạo.

Đức hạnh từ bi hỷ xả cao cả, cung cách thuyết giảng và hành xử của Đức Phật vượt ra ngoài mọi đối đãi nhị biên, phá bỏ mọi chấp thủ, giải tỏa mọi phiền não, chế ngự được tâm lý sôi nổi và kích động đầy sai lầm của con người. Lời giáo huấn của Đức Phật từ bi lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không có tham ái ô nhiễm, dễ điều phục và luôn tỉnh giác. Vì vậy đạo Phật sẽ mãi mãi thăng hoa, tồn tại và tiếp tục được sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại cho nhiều thế hệ sau nữa.

Đức Phật đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni nước Ấn Độ. Phật tử Việt Nam ở xa xôi ngàn dặm mà lại có duyên hạnh ngộ với Phật Pháp, còn một số rất nhiều con người sanh sống ngay tại Ấn Độ, nhưng hoàn toàn không biết gì về Phật và cũng không nghe được lời giáo huấn của Ngài.

Hoàng đế Võ Tắc Thiên là vị nữ hoàng Trung Hoa đã phải thốt lên rằng: “Bá Thiên Vạn Kiếp Nan Tao Ngộ”, trăm ngàn muôn kiếp không dễ gì mà gặp được. Một sự kiện chân thật, vô cùng hiếm hoi quí giá đến bực nào để có thể giác ngộ và hiểu được lời Đức Phật dạy.
                                 
ĐẠO PHẬT BÌNH ĐẲNG VÀ TỰ DO
Đạo Phật bình đẳng và tự do chọn lựa các pháp môn tu, miễn sao hợp với căn cơ, hoàn cảnh và khả năng hiểu biết của từng người. Không có sự cưỡng ép hay áp đặt hù dọa, hoặc phân biệt giai cấp chủng tộc trong Phật giáo chân chánh. Trong đạo Phật có nhiều pháp môn tu, ba pháp môn tu điển hình và thực hành nhiều nhất có thể kể là: Tu thiền, niệm Phật và trì chú. Tất cả các pháp môn đi từ nhiều con đường, nhưng đều nhắm mục đích cứu cánh Đức Phật dạy là: Giác Ngộ và Giải Thoát. Giác Ngộ Chân Lý và Giải Thoát Sanh Tử.


1.- Tu thiền: Hành giả tu thiền thực tập chánh niệm, oai nghi trong sự đi, đứng, nằm, ngồi, chung qui là trụ tâm nơi hiện tại, loại bỏ vọng tâm, thanh tịnh thân khẩu ý, phương tiện của giới định tuệ. Điều phục tâm bình khí hòa, bình thường tâm là đạo.
2.- Nim Pht: Hành giả tu hướng tâm theo Phật, niệm Phật cầu vãng sanh, đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật, niệm thiện giới, loại bỏ niệm bất thiện, niệm ma, an tịnh thân khẩu ý, phương tiện của giới định tuệ. Chánh tâm biệt niệm, tịnh tâm thì có tịnh độ.
3.- Trì chú: Hành giả trì chú, đi đứng nằm ngồi đều trì chú, trụ tâm nơi thần chú, loại bỏ tâm lăng xăng vọng động, tập trung vào sự tỉnh thức không bị mê loạn, không cần phải đếm mới là trì, phương tiện của giới định tuệ. Thanh tịnh thân, tâm sáng trí thông.

Người thấm nhuần chánh pháp
Thanh lọc thân và tâm
Sống trong niềm hạnh phúc
Thiền định thật an lạc
Như kẻ tìm kho báu
Được lợi lớn cho mình
Hiền trí điều phục tâm
Tham ái chẳng mong cầu
Như tảng đá kiên cố
Bão tố không lay động.
                                
                   ĐẠO PHẬT THỰC TẾ VÀ CHÂN THẬT
Một Phật tử giác ngộ Phật tâm Phật tánh chân thật sáng suốt, nhận biết giữa đúng sai, thiện ác và không bị mê lầm điên đảo chấp chặt thành kiến, nhận sự ảo mộng là thật.

Đạo Phật làm biến đổi sự suy nghĩ vô minh của người kiêu mạn, nóng nảy, cố chấp. Giáo lý đạo Phật giúp thấy rõ bản chất thực tế của luật vô thường và luật nhân quả chi phối con người trong nhiều đời kiếp sanh lão bịnh tử.

Lời dạy của Đức Phật thực tế vô cùng, thích hợp mọi hoàn cảnh mọi trình độ và căn cơ của chúng sinh. Thân tâm bớt loạn động, bớt phiền não, dứt nghiệp chướng, thì điều phục được tâm tham, tâm sân, tâm si, chủ động được “thân khẩu ý”.

Giới-Định-Tuệ. Giữ gìn tịnh giới, tập tu thiền định, phát sanh trí tuệ. Những việc khó có như rùa mù nổi lên mặt nước gặp bọng cây, nhưng được thân người lại có nhiều phước duyên nghe được  giáo huấn Phật dạy qua kinh điển, cố gắng hành trì thì cũng sẽ thắp sáng được ngọn đuốc trí tuệ.

1. Hiểu được kinh Phật là khó.
2. Bần cùng bố thí là khó.
3. Bỏ danh sắc rất là khó.
4. Nhục không sân là khó.
5. Quyền thế không khinh người là khó.
6. Tâm hành bình đẳng là khó.
7. Không dính cảnh thị phi là khó.
8. Gặp thiện tri thức là khó.
9. Chánh tín học đạo là khó.
10. Bỏ thân hành đạo là khó.

Hằng ngày trong cuộc sống, nơi công sở nếu mọi người biết áp dụng Phật pháp với lòng bao dung, tâm hỷ xả, không ngã mạn cố chấp, bình tỉnh, cư xử tốt với đồng nghiệp, bớt ganh tị đố kỵ, bớt hơn thua, thì bớt phiền não và sẽ cải thiện được môi trường sống, xung quanh trở nên thân thiện tốt đẹp hơn.

Trong mọi tình cảnh khó khăn nào, nếu thực hiện sự chánh niệm tỉnh thức, tâm được an thì sự thông minh sáng suốt, năng lực về tinh thần tăng gấp bội, công nhân viên chức sẽ cống hiến được nhiều sáng kiến tiến bộ, việc làm bền vững hoàn hảo, đem lợi ích nhiều cho bản thân, gia đình và cho xã hội.



Tóm lại, Phật giáo không hứa hẹn là có thể thỏa mãn khát vọng hạnh phúc vĩnh cửu phàm tục chứa đầy nghiệp báo cho riêng bất cứ ai. Nhưng kết quả từ giáo lý thực tế và chân thật của đạo Phật luôn luôn đem lại hòa bình hạnh phúc và an lạc cho mọi người. Sự bình an hạnh phúc bền vững chỉ tìm thấy ở tâm thiền định, thanh tịnh và trí tuệ sáng suốt của người đã đạt được giác ngộ.

Nếu như xã hội có nhiều người tu theo lời Phật dạy, phát tâm thiện lành, lòng tràn đầy nhân ái của bậc thánh nhân và bồ tát, cõi thiên đàng cực lạc tại thế gian, ngày an lành đêm an lành, giấc ngủ được bình yên, thánh thiện. Qua nhiều niên kỷ và thời đại con người đã có dịp kiểm nghiệm vai trò tôn giáo của đạo Phật qua thực tế áp dụng trong đời sống hằng ngày. Những vị đắc quả A La Hán sinh ra đời thời Đức Phật, bản thân cũng tự giác ngộ được những tri kiến như Phật, để lại tam tạng kinh điển dạy người đời sau đường lối tu chứng.

Khi liễu ngộ được sự nhiệm mầu vi diệu của Phật Pháp, con người dĩ nhiên đã không ngớt lời tán thán Đức Thế Tôn là bậc Thầy chỉ đường cho người chưa có phương hướng trong cuộc sống, đem đèn sáng vào trong bóng tối. Nói một cách khác, Đức Phật là một lương y đại tài, chữa được hằng vạn tâm bịnh khác nhau của chúng sinh.

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa.
***
Pháp Phật vi diệu lại cao sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy, chuyên tu học
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
 TKN Thích Nữ Chân Liễu




                                  CẦN

THƠ VIÊN PHỤNG

Pháp nghĩa cần phải học
Pháp nghi cần phải tỏ
Pháp vị cần phải thấm
Pháp thượng cần phải đạt.

***
Phật ngôn cần phải hiểu
Phật tâm cần phải ngộ
Phật cầu cần phải xả
Phật đạo cần phải thành.

 Kính mời viếng thăm bài: "Như Giọt Nước Lá Sen"




ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT

THÍCH NỮ CHÂN LIỄU

Thời gian qua thật nhanh, một lần nữa “Xuân Lạnh” lại về trên đất nước Canada “Đất lạnh nhưng tình nồng ấm”. Một chút gió nhẹ, một chút lạnh lạnh của mùa xuân cùng màu trắng tuyệt đẹp của hoa tuyết, người con Phật mọi nơi quên lạnh, quên đi những bận rộn suốt một năm qua, tạm quên những phiền hận toan tính, hân hoan tụ tập về chùa, hy vọng tìm lại sự ấm áp tình đồng đạo, hay tìm kiếm một chút hương vị an lạc giải thoát của thiền môn.

Có những người trong đạo Phật theo truyền thống chỉ đến chùa vào những dịp đầu năm mới, cầu phước cho mình và gia đình đầu năm đến suốt năm bình yên, mong cầu tài cầu lộc dồi dào hoặc đền ơn Phật Tổ Bồ Tát đã giúp gặt hái nhiều may mắn trong năm qua. Cũng có Phật tử đến chùa rất nhiều lần trong năm, thường được xem như là những “Phật tử thuận thành” vẫn muốn cầu nguyện và đền ơn. 

Có vị vì thích công quả nấu cơm, quét dọn, cắm hoa, biết tụng kinh và bái sám rất rành. .. Cho dù cái nhân duyên về chùa có khác nhau, nhưng thiện pháp như tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, chay tịnh hay nghe thuyết pháp trong dịp đầu năm mới cũng đều là một duyên lành cần siêng năng hành trì.

CẢM NHẬN ĐƯỢC TÂM Ý TRONG KINH
Mục đích và cứu cách của đạo Phật là con đường thoát ra khổ nạn, Đức Phật mà chúng ta lễ lạy là Bậc Nhất Thiết Trí ( trí tuệ cao tột nhất),như vậy duyên lành về chùa ngoài việc cầu phước còn phải thưa hỏi tìm hiểu giáo lý phương cách phá trừ vô minh, mồi ngọn đuốc trí tuệ từ những lời Phật dạy, thấm mhuần tâm ý câu kinh. Là người con Phật công phu thuần thành tụng đọc khàn tiếng, lạy kinh đến thân xác rã rời mệt mõi, như vậy thật xứng đáng được người thế gian ngưỡng mộ kính phục.   

Nhưng ý thức mơ màng sự tự tôn trong hào quang giả tạo, thực tế thì muốn chạy trốn hoàn cảnh, chạy trốn phiền não, né tránh tội lỗi bản thân, khi đó con người thật sự khó hiểu và cảm nhận thấu suốt được tâm kinh, ý nghĩa kinh Phật dạy gì?..Thì tụng kinh hành trì chỉ là sự vay mượn của bản ngã, dễ phát sinh ra nhiều căn bịnh tự hào hơn thua, so sánh, khen mình chê người đưa người tu nhìn ra bên ngoài nhiều hơn là tự soi rọi vào trong nội tâm. Khi nào thấy rõ con người thật của chính mình xấu tốt ra sao, phát tâm sám hối chuyển đổi hướng thiện là đã có được ánh sáng trí tuệ. Hạnh phúc và bình an thật sự chỉ hiện hữu khi nhận ra những khổ đau, phiền não, giả danh, nhân ngã thị phi đều không có thật.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn một vị Tăng hiệu Pháp Đạt khi đến lễ Lục Tổ khoe: “ Tôi đã tụng Kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ rồi”. Lục Tổ bèn nói kệ dạy rằng:

Lạy vốn phá tự kiêu,
Đầu sao không sát đất,
Hữu ngã tội liền sanh,
Quên công phước thật lớn.
Người tên là Pháp Đạt,
Siêng tụng hoài không dứt,
Tụng không theo âm thinh,
Minh tâm mới gọi Phật,
Ngươi nay bởi có duyên,
Ta mới nói chân Pháp,
Tin chắc Phật không lời,
Liên hoa không do  miệng.
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,
Tụng lâu không rõ ý,
Kinh nghĩa ấy thù ta.

Tăng Pháp Đạt nghe kệ xong, liền ăn năng sám hối: “Đệ tử tụng Kinh nhưng chưa hiểu được nghĩa lý của Kinh, chỉ tụng theo văn tự, tâm thường cao mạn cũng có chỗ nghi chưa thấu rõ, từ nay xin giữ hạnh khiêm tốn. Kính xin Ngài thương xót lượt giải nghĩa lý trong Kinh”. (Kinh Pháp Bảo Đàn)


Thông thường khi nhìn ngắm một bức tranh, đa số chỉ thấy được cái đẹp cái xinh tươi của cây cảnh, hoa lá hoặc màu sắc rực rỡ một cách phiến diện hời hợt, ít ai cảm nhận hay động tâm hiểu được ý nghĩa mà người họa sĩ muốn gởi gắm vào trong tranh. Cũng vậy khi lễ Phật, tụng kinh người Phật tử có quan niệm tụng kinh phải thuộc lòng, tụng kinh một ngày phải hai thời, ba thời hoặc công phu lạy Phật từng câu từng chữ trong kinh, cầu nguyện thì phải thành tâm … thì mới đúng là nhà tu chân chánh kính Phật trọng Pháp. Sau thời tụng kinh bái sám, xếp quyển kinh lại ngay ngắn, đem lên cất vào kệ, xem như thời kinh hoàn mãn. Điều này không sai, nhưng chưa đủ vì chỉ nhận được sự bình an tạm thời, có một ít thiện phước, tâm ý là lời phật dạy chưa cảm nhận được, chưa thấy rõ mục đích cứu cánh và chân lý đạo Phật.

Lắng tâm suy ngẫm hay làm thử con toán tính sổ trong cuộc đời tu hành chúng ta đi về chùa tụng kinh tất cả là bao nhiêu lần, bao nhiêu phẩm, bao nhiêu bộ kinh rồi hoặc đã thuộc nằm lòng rất nhiều bộ kinh Phật, lạy quá  nhiều lần hầu như không còn tính được nữa?!  Đa số người gặp cảnh bất như ý, đi tìm quên trong thú vui thế tục, người có đạo tâm tìm nguồn an ủi nơi cảnh chùa. Nhưng nội tâm vẫn còn bị tổn thương vì những hạt giống khổ đau phiền não chưa thấy được phương cách để loại trừ nó. Ai cũng có tánh giác, nhưng do chúng ta mãi hướng ngoại tìm cầu suốt cuộc đời, nên các vị Tổ thường nhắc nhở rằng: “Như người vác Phật tìm Phật, người cỡi trâu tìm trâu”. Mãi mãi quẩn quanh trong vòng luân hồi sanh tử.
Dù tụng nhiều kinh điển
Không thực hành buông lung
Như trẻ đếm bò người
Không hưởng quả đạo hạnh.
(Kinh Pháp Cú)

Nếu không tư duy suy ngẫm hiểu thấu đáo lời Phật dạy trong từng câu kinh tụng đọc hằng ngày, thì sự tụng kinh phút chốc thành vô dụng, thời tụng kinh trở thành ép xác trả nợ Phật, trả nợ thế gian không ích lợi gì cho mình cả, chư Tổ thường quở trách rằng: “Tu như vậy là đang tìm sừng thỏ hay lông rùa”. Cho đến khi bỏ lại xác thân phàm tục cũng khó mà thấy Phật. Như vậy ánh sáng từ câu kinh Phật ở chổ nào? Thật sự khó mà thấy được. Nhưng nếu như vậy cảm thấy đủ để an lạc vài phút giây ngắn ngủi thì “có thể” xem như hoàn mãn một thời tụng kinh.
Phật pháp tại thế gian,
Mê ngộ có chậm mau,
Bôn ba qua một kiếp,
Người lỗi ta không lỗi,
Bỏ đời đi tìm thánh,
Sừng thỏ kiếm sao ra.


ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
Đức Phật dạy: “Cổ xe trắng tinh đẹp nhất có thể ví như Niết Bàn. Các con tuấn mã ví như tin tấn và trí tuệ. Biết hổ thẹn và sợ tội lỗi ví như cái thắng. Nhẫn nại và từ bi giống như áo giáp. Thiền định và nguyện lực ví như bánh xe. Cuối cùng quả vị giải thoát là màu trắng tinh khiết của chiếc xe đẹp nhất, vết bẩn không còn tồn tại vì được người phu xe siêng năng, chuyên cần giữ gìn sạch sẽ”. (Kinh Tạp A Hàm)

Dù tụng kinh một lần, hai lần hay hằng trăm lần, nhưng duyên sự đến chùa vì cầu khẩn, vì tìm kiếm danh lợi mà không mong cầu tu học hay giác ngộ, thì chỉ phí đi thời gian của một đời người, sẽ không thấy được ý nghĩa thâm sâu trong lời kinh Phật. Nhưng nếu chuyển tâm phàm phu ích kỷ trở thành một hành giả trên đường đi tìm giác ngộ, quyết tâm mong thoát vòng sanh tử luân hồi, một người con Phật đúng nghĩa, buộc chúng ta phải biết dụng tâm và năng lực để thấy được ánh sáng trí tuệ từ câu kinh Phật. Đó là cả một kho báu của người cha trưởng giả để lại cho người con cùng tử (trong kinh Pháp Hoa) có quyền thừa hưởng, chìa khóa kho báu vô giá trong tay mà không bước thêm bước nữa để mở cánh cửa trí tuệ bát nhã, con đường duy nhất đưa đến giải thoát.

Đức Phật là bậc đạo sư, kinh là những lời Phật dạy, Ngài chỉ cho con đường vượt ra khỏi khu rừng vô minh tối tăm đầy cạm bẩy, hành giả là người phải tự bước đi bằng chính đôi chân của mình. Sai lầm nặng nề nhất là ngồi chờ kỳ nhân, mong cầu phép lạ. Ngài cũng là vị lương y đại tài có thể chữa được hằng ngàn tâm bịnh cho chúng sanh và để lại hằng vạn toa thuốc trị bịnh, chúng sanh cần phải uống và thực hành theo lời dặn, chứ không chỉ tụng đọc mà có thể khỏi bịnh được. Lợi ích của Kinh Phật đưa con người từ phàm phu mê mờ ích kỷ giật mình tỉnh giấc, ý thức được từ đâu sanh ra thế gian nầy, chết đi về đâu? Giải đáp mọi nghiệp duyên xảy ra trước mắt, từ đó người tu chánh tín tự chuyển mình, tự toàn thiện chính bản thân thì mới mong thấy con đường đạo. 

Sống trong đời không lúc nào cũng có thãm đỏ trải dưới chân cho chúng ta bước đi dễ dàng. Mà con người phải tự lo cho bản thân có đôi giày an toàn vững chắc và trí tuệ chân chánh sáng suốt, để có thể chống nổi với nghịch cảnh và vượt qua chông gai. Cũng vậy, người Phật tử dù xuất gia hay tại gia đừng tự dễ dãi với chính mình, đừng để danh lợi lôi kéo vào con đường mù mịt tối tăm không lối thoát. Niềm tin chánh tín vào lời dạy chư Phật chư Tổ đã chứng đạo và luôn luôn chánh niệm dùng công phu “phản quan tự kỷ”  dám nhìn lại chính bản thân mình, là cơ hội để có thể tự khắc phục chuyển đổi phiền não của vọng tâm nguyên nhân gây ra tội lỗi, thấy được thực tế rất chân thật “ta là ai? tốt xấu như thế nào?” để biết mà tu.
Tuy tụng ngàn chương cú
Không hiểu nghĩa ích gì
Đâu bằng hiểu một câu
Nghe xong liền ngộ đạo.
(Kinh Pháp Cú)

Ánh sáng từ câu kinh từ những lời Phật dạy là trí tuệ, nếu không người tu dễ rơi vào tà tín và cũng không thể hướng dẫn người khác theo đúng chánh pháp. Một số ngôi Già-lam biến thành chỗ buôn Thần bán Thánh, xin xăm bói quẻ, cũng do người tu không có chánh kiến và chánh tín. Nơi ấy, Đức Phật bị người đời biến thành thần linh ra oai tác phúc, đạo Phật mất đi ý nghĩa của một đạo giác ngộ giải thoát. Cho nên, phước đức và trí tuệ được xem như hai cánh của một con chim, muốn bay xa, bay cao, chim phải có đầy đủ hai cánh mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực.

Tóm lại, người tu thường hay có tâm phân biệt cao thấp, tốt xấu, thiện ác, thánh phàm…mà sanh phiền não, đạo phật không phải là thần quyền hay độc quyền vì vậy giác ngộ giải thoát cũng không dành riêng cho một vị nào cả, đạo đi vào đời bằng sự bình đẳng tuyệt đối và sự chân thật vốn có từ vô thủy của mọi người, nhờ ánh sáng từ những lời Kinh mà tự tu, tự cứu, tự lực, tự giác mà thành chánh quả. Nhưng cao cả đáng kính hơn hết của sự giải thoát hoàn toàn viên mãn là “Ngoài chẳng nhận là phàm thánh, trong không trụ tự mãn, không chấp phước đức hay công đức”. Khi đó trong đạo tràng lúc tụng Kinh chắc không còn phiền não vì người thỉnh chuông không đúng lúc? Người dẫn mõ quá nhanh? Người ngồi kế bên thì giọng đọc quá lớn!!...chỉ là những chuyện không đáng để bận lòng.

Một câu chuyện để suy nghẫm:
Ngày kia có một người Cha già vì duyên sự phải đi xa nhà một thời gian khá lâu. Trước khi ra đi Ông để lại cho hai người con 3 bức thư thật dài và đầy đủ, tất cả là những lời căn dặn dạy dỗ làm thế nào để sống an lành vui vẽ hạnh phúc với nhau khi không có Cha ở bên cạnh.
Người con thứ nhất, rất kính trọng Cha vội dán 3 bức thư lên tường, mỗi ngày đều tụng đọc đến thuộc nằm lòng, tốt hơn thế nữa anh còn siêng năng đọc một chữ, lạy một lạy, lập lại nhiều lần rất thành tâm.
Người con thứ hai, chậm rãi đọc lá thư và suy tư vận dụng sự thông minh sẳn có để tìm hiểu tâm ý của Cha muốn dạy những gì. Sau đó anh hiểu được ý nghĩa của 3 lá thư và một mực nghiêm túc thực hành tất cả lời Cha căn dặn dạy bảo. Bằng sự bình đẳng, lòng bao dung, dẹp tan cố chấp đầy phiền não của lòng tham sân si, chuyển tâm phục vụ lo lắng chăm sóc cho tất cả mọi người, buông bỏ bản ngã và sự ích kỷ cá nhân. Vì người không vì mình. Tạo được an lạc hạnh phúc trong đời sống như những gì Cha già mong mõi.

Qua câu chuyện trên, lòng kính hiếu với Cha Lành như Đức Phật, chúng ta tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, còn phải học hiểu tâm ý lời dạy Chư Phật, Chư Tổ giảng dạy được ghi chép lại trong Kinh. Thực hành chánh niệm tỉnh giác, thanh tịnh tâm, trí tuệ sáng tỏ thấy được việc làm có ý nghĩa, hành trì tùy thuộc vào Tâm hay vào Tướng.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

 PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 1 - 28


PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 25
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
NĂM ĐIỀU QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO PHẬT (CON TIN TRONG CHÙA)
BẤT TÙY PHÂN BIỆT- CỨU KÍNH CỦA ĐẠO PHẬT
HIỆN TƯỢNG MÊ TÍN TRONG CÁC TÔN GIÁO
TU TÂM DƯỠNG TÁNH
NGUỒN GỐC CỦA KHỔ ĐAU (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 1)
THƯ NGỎ VÀ MỤC LỤC PHTQ SỐ 26